TRƯƠNG ĐĂNG DUNG 1-Trong các bài viết gần đây về những đặc điểm của lí luận văn học hiện đại, hậu hiện đại, chúng tôi có nhận định rằng sự phát triển của hệ thống lí luận văn học trong thế kỷ XX cho thấy ở đâu lí luận văn học xác lập được bản chất tự nhiên đặc trưng của đối tượng nghiên cứu, khoanh vùng được đối tượng nghiên cứu với những vấn đề riêng, thì ở đó lí luận văn học mới có khả năng phát triển như một ngành khoa học thực sự.
Chúng ta đều biết, mọi ngành khoa học đều phải tiếp cận đối tượng nghiên cứu trên hai bình diện là kinh nghiệm và lí luận. Chính các mối quan hệ giữa cụ thể và trừu tượng, riêng và chung sẽ bổ sung những điểm nhìn từ nhiều phía khác nhau đến một đối tượng có tên gọi là văn học. Ở Việt Nam không biết từ bao giờ, cụm từ lí luận – phê bình luôn đi với nhau như là một sự thống nhất, nên khi nói đến tình trạng yếu kém của nghiên cứu lí luận văn học người ta nghĩ ngay sự yếu kém đó là của phê bình văn học và ngược lại. Do nhập nhằng giữa đối tượng nghiên cứu của lí luận văn học với đối tượng nghiên cứu của lịch sử văn học và phê bình văn học, người ta đồng nhất sự phân tích tác phẩm văn học cụ thể trong nghiên cứu lịch sử văn học và phê bình văn học với sự phân tích vấn đề tác phẩm trong lí luận văn học, nơi vai trò của những khái quát hóa lí luận và việc tiếp cận bản thể của tác phẩm văn học đều xảy ra trên bình diện trừu tượng. Cũng vì không phân biệt rõ đối tượng của lí luận văn học và đối tượng của nghiên cứu, phê bình văn học mà người ta thường cho rằng lí luận văn học gắn liền với văn học hiện đại hơn văn học cổ, cận đại, thậm chí có nơi người ta muốn giải thể bộ môn lí luận văn học vì nó giống bộ môn văn học Việt Nam hiện đại (!). Do đó, lí luận văn học ở Việt Nam chẳng những không làm tốt vai trò là chỗ dựa cho nghiên cứu, phê bình văn học, mà bản thân nó cũng tự mờ nhạt dần theo thời gian. Xuất hiện những bài viết nhiều lí sự mà thiếu tư duy lí thuyết, hoặc có những bài viết mang tính chất phát biểu ý kiến chỉ đạo về tình hình văn học hơn là các bài nghiên cứu lí luận văn học có bề sâu học thuật. Lâu dần, trong đời sống văn học ở nước ta xuất hiện hai đặc điểm: một là người ta không muốn chấp nhận những người làm lí luận văn học xuất phát từ tư duy triết học, mĩ học thuần túy, cho đó là kinh viện, trừu tượng, không cần thiết; hai là người ta ít quan tâm đến lí luận văn học, nhất là những thành tựu mới của lí luận văn học trên thế giới. Tình hình trên dẫn đến việc nhiều vấn đề cơ bản của mĩ học và lí luận văn học không được nghiên cứu từ gốc một cách bài bản, triệt để nên bất kì ai, bất kì lúc nào cũng có thể làm bùng nổ những cuộc tranh luận kéo dài về một vấn đề vô bổ. Lí luận văn học chỉ có thể có được vị thế khoa học riêng nếu có sự “phân công” công việc giữa nghiên cứu, phê bình và lí luận văn học bên trong hệ thống các khoa học văn học. Nghiên cứu đồng đại những hệ thống bên trong của tác phẩm văn học như các tầng bậc của tác phẩm, chức năng của chúng, các mối quan hệ bên trong và sự tạo nghĩa của văn bản, v.v… không phải là công việc của lịch sử và phê bình văn học. Văn học như là hoạt động kí hiệu, văn bản văn học như là hệ thống các kí hiệu và việc tổ chức nghĩa của văn bản là những vấn đề vượt quá khuôn khổ đối tượng của lịch sử và phê bình văn học, chúng tạo nên hệ thống dành riêng cho lí luận văn học. Nói lí luận văn học trên thế giới ngày càng khoanh vùng được đối tượng nghiên cứu, chính là nói về sự xác lập đối tượng nghiên cứu riêng của lí luận văn học hiện đại.
Có thể nói, một cách gián tiếp, bóng ma Lukacs cũng đã đến Việt Nam với mô hình phản ánh. Và trong thực tế, từ những ngày đầu đến hôm nay, lí luận văn học mácxít ở Việt Nam chủ yếu vẫn phất cao ngọn cờ của chủ nghĩa hiện thực. So với trình độ phát triển lí luận văn học của một số nước trên thế giới mấy chục năm qua, lí luận văn học ở Việt Nam chỉ mới ở trình độ khiêm tốn. Tính từ Văn học khái luận (1944) của Đặng Thai Mai, sự vận động của tư duy lí luận văn học hiện đại ở Việt Nam chưa tạo thành trường phái học thuật với những thành tựu nổi bật. Không thừa hưởng những di sản triết học và mĩ học lớn, các nhà lí luận văn học mácxít ở Việt Nam trước hết là những chiến sĩ, lấy việc truyền bá lí tưởng cách mạng làm mục đích chính. Mọi vấn đề của văn học, nghệ thuật đều được nhìn nhận và đánh giá từ lợi ích chính trị – xã hội thực tiễn. Khả năng thích ứng và phục vụ kịp thời là những đòi hỏi không chỉ dành riêng cho giới sáng tác, biểu diễn mà còn dành cho cả giới nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học. Chúng ta không có thời gian cho tư duy tư biện, cho nghiền ngẫm và khắc khoải trước các vấn đề học thuật. Mô hình phản ánh đã bị quan niệm một cách đơn giản và thô thiển. Cả thế giới đều biết mô hình phản ánh trong lí luận văn học mácxít gắn liền với tên tuổi G. Lukacs nhưng ở Việt Nam những công trình mĩ học quan trọng nhất của ông cũng không được giới thiệu và nghiên cứu. Người ta chỉ dựa vào câu nói của Lênin về L. Tolxtoi như là “tấm gương phản ánh cách mạng Nga” làm xuất phát điểm cho mọi lập luận liên quan đến mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. Thay vì nỗ lực khám phá bản chất của văn học, lí luận văn học ở nước ta đã dành ưu tiên cho việc đề cao hiện thực, cái hiện thực với những đại tự sự được kiến tạo từ trước. Suốt một thời kỳ dài, người ta đồng nhất cái được phản ánh với cái phản ánh, nghiên cứu văn học vì thế chỉ quan tâm tới nội dung trong các tác phẩm văn học nhằm chứng minh một chân lí nào đó ở bên ngoài theo một hệ qui chiếu có sẵn. Chúng ta đều biết, cùng với sự phát triển của khoa học văn học, đã hình thành hai hệ thống chuyển tiếp quan trọng được thiết chế hóa, đó là phê bình văn học và giảng dạy văn học trong các nhà trường. Hai hệ thống này chuyển tiếp những mô hình diễn giải liên quan đến tác phẩm văn học, chúng giúp cho những người không nghiên cứu văn học một cách chuyên nghiệp vẫn có thể hiểu những tác phẩm văn học cần hiểu. Trong thực tế, mô hình diễn giải tác phẩm văn học ở nước ta cho đến hôm nay vẫn chịu sự chi phối của mô hình phản ánh. Đâu đó, vẫn có nhà nghiên cứu, phê bình, giảng dạy văn học thay vì giúp mọi người nhận ra vẻ đẹp của văn chương, tiến tới chỉ ra sự vận động của tư duy nghệ thuật qua từng giai đoạn phát triển của văn học, thì lại chỉ quan tâm tới những yếu tố ngoài văn học thông qua việc đối chiếu nội dung của tác phẩm văn học với hiện thực bên ngoài. Cách làm này đã dẫn đến thói quen tiếp nhận và đánh giá văn học một cách thô thiển, ảnh hưởng xấu đến hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật. Những năm trước đây, chúng ta đã nhận ra vấn đề này, nhưng vẫn chưa có những công trình lí luận nghiên cứu chuyên sâu một cách bài bản trên cơ sở học thuật. Mô hình phản ánh, một khi được nghiên cứu nghiêm túc, sẽ soi sáng nhiều vấn đề liên quan đến chủ nghĩa hiện thực, đến những đặc điểm của văn học Việt Nam hiện đại.
Do quá nhấn mạnh đến mô hình phản ánh, tư duy lí luận văn học ở Việt Nam đã không quan tâm đến mô hình ngôn ngữ. Đây là đặc điểm chung của toàn bộ hệ thống lí luận văn học mácxít chứ không riêng gì ở Việt Nam. G. Lukacs chỉ thấy ở ngôn ngữ cái công cụ hình thức cao nhất, ông không xem ngôn ngữ là thực thể của tác phẩm(1). Nghiên cứu các công trình của L. Goldman, chúng ta thấy nhà lí luận này cũng không xem cấu trúc ý thức là cấu trúc ngôn ngữ. Theo Goldman, chính hiện thực đã tạo sẵn hình thức cho tác phẩm văn học qua cấu trúc của cái nhìn thế giới, theo tinh thần của chủ nghĩa cấu trúc sinh thành. Như chúng tôi đã phân tích ở phần trên, không phải ngẫu nhiên các xu hướng lí luận văn học hiện đại ở phương Tây đã khai thác ở ngôn ngữ học và triết học ngôn ngữ nhiều như vậy, bởi vì người ta đã ý thức rằng tác phẩm văn học là tập hợp các kí hiệu, phương thức tồn tại của nó là quá trình tạo nghĩa của văn bản thông qua người đọc. Do nhận thức tác phẩm văn học không chỉ mang tính hiện thực mà còn có tính kí hiệu nên nhiều vấn đề liên quan đến văn học đã được tư duy lí luận văn học hiện đại phương Tây lí giải và soi sáng từ mô hình ngôn ngữ. Có thể nói những thành tựu của ngôn ngữ học và triết học ngôn ngữ từ Saussure đến Derrida đã soi sáng nhiều vấn đề của lí luận văn học hiện đại, hậu hiện đại như về bản chất của văn bản văn học, về nghĩa và sự tạo nghĩa của văn bản, về nghĩa chủ ý và nghĩa được thiết lập thông qua người đọc. Với giải trình ngôn ngữ của Foucault, người ta đã quan tâm đến những qui ước văn hóa của ngôn ngữ và hiểu thêm rằng không thể phân tích đầy đủ quá trình thu nhận tri thức của một cá nhân từ ngôn ngữ nếu chúng ta không biết đến kiểu mẫu giải trình ngôn ngữ của cộng đồng mà cá nhân đó đang phụ thuộc. Đến J. Derrida, ông quan niệm, ý thức của tác giả không hề có ưu thế tuyệt đối bên trên nghĩa của ngôn từ, thậm chí nhà văn chỉ phát hiện ra nghĩa của ngôn từ qua việc viết ra nó. Theo ông, những cái biểu đạt vĩ đại hơn rất nhiều so với những cái được biểu đạt. Từ đây, mối quan hệ cái biểu đạt và cái được biểu đạt do Saussure đề xuất, vì thế không còn được coi trọng nữa. Như vậy, để tiếp cận với bản chất của văn học, người ta đã xuất phát từ bản chất của cái chất liệu làm nên văn bản văn học. Ngôn ngữ học và triết học ngôn ngữ thời hiện đại cũng đã xác lập những quan điểm nghiên cứu văn học. Qua những quan niệm về ngôn ngữ, chúng ta có thể biết được khoa học văn học hiện đại quan tâm đến khía cạnh nào của đối tượng nghiên cứu và tại sao ở phương Tây lại xuất hiện những trào lưu lí thuyết văn học dựa vào tính ngôn ngữ để đề cao tính kí hiệu, phủ nhận tính phản ánh, khẳng định không gian ngôn ngữ, quyền tự trị ngữ nghĩa của văn bản văn học.
2. Chúng ta nói nhiều đến giao lưu, hội nhập. Và trong thực tế, ở một số lĩnh vực nhất định, chúng ta đã làm tốt việc giao lưu, hội nhập, thậm chí chúng ta đã có được những thành tựu quan trọng. Nhưng riêng trên lĩnh vực khoa học văn học nói chung, lí luận văn học nói riêng, do không có truyền thống triết học và mĩ học, sự thiếu hụt nguồn tri thức lí thuyết văn học trong nhiều năm, chúng ta chưa có hệ hình tư duy lí luận văn học tương ứng với những nước có truyền thống này. Hơn nữa, ra đời trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, lí luận văn học mácxít ở Việt Nam, ngay từ khởi đầu chỉ quan tâm tới những vấn đề cấp thiết nhất có khả năng hướng văn học phục vụ kịp thời những mục đích chính trị – xã hội thực tiễn. Trước năm 1986, hầu như chúng ta ít quan tâm đến những thành tựu lí luận văn học ở phương Tây, nơi những công trình lí luận văn học nói nhiều về hình thức như là phương thức tư duy, là thủ pháp nghệ thuật. Suốt một thời gian dài, ở miền Bắc, các nhà nghiên cứu văn học nói chung vẫn còn nghiêng về cảm hứng phê phán những thành tựu lí luận văn học ở phương Tây. Phê phán như một biện pháp tự vệ, đôi khi thái quá, chúng ta tự vệ trước tất cả những gì khó hiểu. Điều này đã cản trở đến ý thức chủ động học hỏi, nghiên cứu của chúng ta về những thành tựu lí thuyết mới ở bên ngoài.
Cũng như việc dịch và giới thiệu các sáng tác văn học nước ngoài, ở nước ta, việc dịch và giới thiệu các công trình triết học, mĩ học và lí luận văn học vẫn còn trong tình trạng mạnh ai nấy làm, kết quả chưa được bao nhiêu. Đấy là chưa kể đến cách làm hớt ngọn trong nghiên cứu, giới thiệu lí thuyết văn học nước ngoài. Có người thậm chí không hề đọc tác phẩm lí luận mà mình muốn nghiên cứu, giới thiệu, nhưng vẫn cứ nghiên cứu, giới thiệu theo một nguồn nào đó, thậm chí còn phê phán gay gắt. Có nhà nghiên cứu, phê bình không đọc, hoặc đọc không nghiêm túc những công trình nghiên cứu, giới thiệu lí thuyết văn học nước ngoài nhưng vẫn tỏ thái độ hờ hững, do quan niệm cái gì khó hiểu là không cần thiết, như cố GS. Trần Đình Hượu đã từng phê phán. Người biết ngoại ngữ ngày một nhiều, nhưng không phải ai cũng biết bắt đầu nghiên cứu từ đâu trong cái biển tri thức lí thuyết văn học! Để nghiên cứu những vấn đề của lí luận văn học hiện đại, hậu hiện đại ở phương Tây, người ta phải nghiên cứu các trường phái triết học, mĩ học và các trào lưu triết học ngôn ngữ hiện đại, hậu hiện đại liên quan. Một công việc âm thầm và mệt mỏi mà không phải ai cũng sẵn sàng chấp nhận.
Tuy vậy, thời gian gần đây đã có những nỗ lực nghiên cứu, giới thiệu và dịch thuật lí thuyết văn học nước ngoài rất đáng trân trọng(2). Từ chỗ một nền lí thuyết khép kín với những chắp vá lấy từ Liên Xô (cũ) và Trung Quốc, chúng ta đã mở rộng tầm nhìn ra các quốc gia phương Tây có nền lí thuyết văn học phát triển như Đức, Pháp, Mỹ,… Từ chỗ chỉ quan tâm đến Chủ nghĩa hiện thực, chúng ta đã nghiên cứu, giới thiệu về Chủ nghĩa hiện đại, hậu hiện đại. Từ chỗ chỉ quan tâm đến những thành tựu của tư duy lí thuyết tiền hiện đại, như về tác giả, chúng ta đã tiếp cận với tư duy lí thuyết văn học hiện đại, như về văn bản, về Chủ nghĩa cấu trúc, Thi pháp học; Phân tâm học, Tự sự học, các trường phái hình thức…; và gần đây là tư duy lí thuyết hậu hiện đại với vấn đề chủ thể tiếp nhận, v.v… Có những lĩnh vực, chúng ta chỉ nghiên cứu, giới thiệu là chính, số lượng tác phẩm dịch còn ít, nhưng cũng có những lĩnh vực chúng ta vừa nghiên cứu, vừa kết hợp dịch các tác phẩm lí thuyết.
Nhìn chung, mấy năm gần đây, đã xuất hiện những dấu hiệu đáng mừng trên lĩnh vực nghiên cứu, giới thiệu lí thuyết văn học nước ngoài vào Việt Nam. Nó cho thấy, một hệ hình tư duy lí thuyết mới đang dần hình thành, kéo theo nhu cầu tiếp cận các thành tựu lí thuyết văn học của các nước. Như vậy, đang xẩy ra quá trình: Những nỗ lực nghiên cứu, giới thiệu thành tựu tiêu biểu của lí thuyết văn học nước ngoài đã làm hình thành từng bước một hệ hình tư duy lí thuyết mới, và đến lượt nó, tư duy lí thuyết mới lại cần đến những tri thức lí thuyết tiếp tục được nghiên cứu, giới thiệu một cách đầy đủ, khoa học và có hệ thống hơn.
Trên thực tế, ở nước ta, mặc dù đã có những nỗ lực nhất định, công việc nghiên cứu, giới thiệu lí thuyết văn học nước ngoài thời gian qua vẫn tiếp tục bộc lộ những giới hạn. Phần đầu của bài viết này đã nêu những đặc điểm của bối cảnh nghiên cứu lí luận văn học ở nước ta, trong phần này chúng tôi đề cập đến một số nguyên nhân cụ thể gây nên những hạn chế trong việc nghiên cứu, giới thiệu lí thuyết văn học nước ngoài:
A – Nghiên cứu, giới thiệu lí thuyết văn học nước ngoài không hệ thống.
Các thành tựu của lí thuyết văn học phương Tây xuất hiện theo từng giai đoạn tiếp nối nhau, đi từ tư duy tiền hiện đại đến hiện đại và hậu hiện đại. Mỗi thành tựu của lí thuyết văn học phương Tây đều gắn liền với một giai đoạn lịch sử và chịu sự chi phối của nó. Vậy nên, khi nghiên cứu, giới thiệu một thành tựu lí thuyết mang dấu ấn đặc trưng cho một hệ hình tư duy nhất định, người ta cần có thao tác khu biệt thành tựu đó cho phù hợp với vai trò của nó ở thời điểm đó(3). Rất tiếc ở Việt Nam người ta đã nghiên cứu, giới thiệu các thành tựu lí thuyết văn học nước ngoài mà không khoanh vùng hay giới thuyết chúng, làm cho người tiếp nhận không phân biệt được cái nào thuộc tiền hiện đại, cái nào thuộc hiện đại và hậu hiện đại; do đó, cũng không thấy được sự phát triển của tư duy lí thuyết văn học trên thế giới qua từng giai đoạn với những khả năng và giới hạn của nó, và nhất là không biết vận dụng ra sao cho phù hợp với những đặc điểm của văn học Việt Nam.
B – Sự ngộ nhận về tính phổ quát và tính ngẫu nhiên lịch sử của lí thuyết văn học.
GS. Stephen Owen (Mỹ) trong bài tham luận khoa học có nhan đề là Những khẳng định của lí thuyết: Nghiên cứu văn chương hàn lâm và văn bản Đông Á đã đề cập đến một vấn đề quan trọng mà theo chúng tôi có thể xem là giới hạn của lí thuyết văn học: Liệu lí thuyết văn học là phổ quát hay mang tính ngẫu nhiên lịch sử? Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế của việc nghiên cứu, giới thiệu những thành tựu của lí thuyết văn học nước ngoài vào Việt Nam. Có thể nêu lên mấy điểm sau đây mà GS. Stephen Owen gợi ra:
– Bản chất của lí thuyết là ngầm tham gia vào việc hình thành điển phạm, trong văn chương hàn lâm, những tác phẩm thỏa mãn các quan tâm lí thuyết thì trở nên quan trọng. Nghĩa là lí thuyết, từ trong khởi thủy đã không “vô tư” trong việc khái quát các vấn đề.
– Điểm mù lớn của lí thuyết văn học là cái ngẫu nhiên lịch sử của chính nó. Lí thuyết tạo ra những khẳng định tổng quát dựa trên những điểm riêng biệt, ngẫu nhiên mang tính lịch sử, như thể những khẳng định này bản thân chúng không mang tính ngẫu nhiên lịch sử.
– Lí thuyết với tư cách một tiến trình tư duy chuyên ngành là phổ quát. Lí thuyết như là một trật tự các văn bản, các nhà tư tưởng, các câu hỏi Âu – Mỹ là một dạng thức địa phương đã được toàn cầu hóa.
Điều băn khoăn mà cũng chính là nguyên nhân làm cho các thành tựu lí thuyết không phải được hoan nghênh ở bất kỳ nơi đâu, đó là làm thế nào để chúng ta hiểu được những sản phẩm văn bản địa phương và những điển phạm địa phương, khi mà chúng không hề đóng vai trò gì trong việc hình thành lí thuyết Âu – Mỹ? Điều này xuất phát từ chính đối tượng của lí thuyết và từ chính những khẳng định mang tính phổ quát của lí thuyết, trên cơ sở tính ngẫu nhiên lịch sử của nó. Những khẳng định mang tính phổ quát của lí thuyết tạo ra các khái niệm, và người ta áp dụng chúng để tiếp cận các văn bản văn học và điển phạm văn học nước khác hoàn toàn xa lạ. Đây là điều mà trong công trình Trên đường đến với ngôn ngữ(4) M. Heidegger đã từng cảnh báo khi ông đối thoại với một giáo sư người Nhật, hay cố GS. Trần Đình Hượu cũng đã từng lưu ý khi nói về khái niệm chủ nghĩa hiện thực.
C – Sự chuyển giao lí thuyết văn học.
Những thành tựu của lí thuyết văn học ra đời ở đâu đó, rồi được nghiên cứu, giới thiệu sang một nước khác bằng con đường dịch thuật. Ở đây, khoan hãy nói đến trở ngại ngôn ngữ trong quá trình du hành của lí thuyết, một khi phải rời khỏi điểm gốc của nó, ngoài những “tiêu hao, mất mát” do dịch thuật, lí thuyết văn học phải gia nhập vào những môi trường văn hóa, chính trị, xã hội mới, nguy cơ bị đồng hóa là rất cao. Theo Edward Said, tác giả của bài tiểu luận nổi tiếng Traveling Theory (Lí thuyết du hành) được công bố lần đầu năm 1982, thì bất kỳ lí thuyết nào cũng có 4 giai đoạn phổ quát đối với sự du hành:
– Đầu tiên là điểm khởi phát, nơi các ý tưởng ra đời hay được thảo luận. Hai là vượt qua những áp lực khác nhau để một ý tưởng chuyển dịch từ một khởi điểm sang một nơi khác. Ba là các điều kiện chấp nhận hay phản kháng ở nơi mà ý tưởng mới thâm nhập. Bốn là sự thích nghi hoàn toàn hay bộ phận của ý tưởng mới (thậm chí được chuyển hóa, biến thể do những cách tiếp cận và vận dụng mới)(5).
Chúng tôi muốn nói thêm rằng, bốn giai đoạn phổ quát mà E. Said nêu trên đây, thì hai giai đoạn sau chịu sự chi phối của các yếu tố như giới hạn của văn bản văn học và điển phạm văn học dân tộc, giới hạn của tư duy chính trị thực dụng và giới hạn của cộng đồng diễn giải lí thuyết. Về tư duy chính trị thực dụng và tác động của nó đến điều kiện chấp nhận hay phản kháng lí thuyết mới, chúng tôi không muốn nói đến một cách riêng rẽ, vì liên quan đến cộng đồng diễn giải không thể loại trừ thiết chế chính trị đứng sau nó. Chúng tôi muốn đề cập đến cộng đồng diễn giải, một khái niệm của Stanley Fish, được ông đề xuất từ năm 1980. Có thể nói, với khái niệm này Stanley Fish vừa cho thấy những vấn đề còn tồn tại trong lí thuyết tiếp nhận, lại vừa gợi mở một cái nhìn mới về bản chất của sự diễn giải văn bản văn học. Lí thuyết văn học khi đến với một nơi nào đó xa lạ, nó được tiếp nhận qua văn bản, vì thế một số yếu tố liên quan đến bản chất của sự tiếp nhận, cũng có hiệu lực đối với sự tiếp nhận lí thuyết văn học. Stanley Fish quan niệm không thể tìm thấy nghĩa trong chính văn bản, mà phải tìm ở trong hành động sở hữu văn bản, trong cộng đồng người đọc thực hiện hoạt động này. Stanley đã xây dựng khái niệm Cộng đồng diễn giải trên cơ sở lí thuyết nghĩa. Xuất phát từ chỗ nghĩa không phải là của riêng của văn bản, nghĩa không do bạn đọc (cá nhân) tạo ra mà là do cộng đồng diễn giải, cái cộng đồng qui định không chỉ sách lược đọc mà còn cả sách lược diễn giải sự viết vì những mục đích của nó, Stanley Fish cho rằng sự đồng nhất và ổn định của nghĩa là nhờ sự đồng nhất và ổn định của nhóm người tạo ra nghĩa. Tại sao Stanley Fish đề xuất khái niệm Cộng đồng diễn giải? Có thể Fish muốn giải thích tại sao sự diễn giải văn bản văn học của một số người nào đó lại giống nhau và ngược lại. Có thể Stanley Fish cho rằng nếu ai đó chuẩn bị diễn giải một văn bản văn học thì người đó phải thuộc về một cộng đồng diễn giải nhất định. Chúng tôi cho rằng, Stanley Fish muốn nhấn mạnh đến quyền lực của cộng đồng diễn giải, thứ quyền lực có sức mạnh tập hợp và tạo nên sự thống nhất ý kiến giữa các thành viên của cộng đồng trong việc diễn giải văn bản văn học. Ông muốn lưu ý đến tác động của thiết chế (trong đó có cả thiết chế chính trị, văn hóa…) trong việc tạo nghĩa văn bản(6).
Nguồn: Tạp chí Sông Hương 3-2017
—————–
(1) Xem Lukács György: Đặc trưng mĩ học; Nghệ thuật và chân lí khách quan (Trương Đăng Dung dịch). Tạp chí Văn học nước ngoài, số 5/1998 và số 6/1999.
(2) Bản báo cáo thường niên tình hình văn học năm 2011 của Viện Văn học, chuyên đề “Tiếp nhận lí thuyết phương Tây hiện đại ở Việt Nam đương đại”, đã làm tốt việc này.
(3) Trong tinh thần này, chúng ta không ngạc nhiên về sự hoài nghi, tự phản biện của Tzvetan Todorov trong cuốn Văn chương lâm nguy (Trần Huyền Sâm và Đan Thanh dịch. Nxb. Văn học Hà Nội, tái bản 2013). Điều quan trọng là chúng ta cần hiểu đúng sự vận động của tư duy lí thuyết văn học ở phương Tây qua từng giai đoạn lịch sử.
(4) Martin Heidegger: Trên đường đến với ngôn ngữ (Trương Đăng Dung dịch), in trong Tác phẩm văn học như là quá trình. Nxb. KHXH, H., 2004.
(5) Xem Hoàng Lương Xá: Lí thuyết du hành và Orientalizm ở Đông Á, trong sách Nghiên cứu văn học Việt Nam, những khả năng và thách thức. Nxb. Thế giới, H., 2009.
(1) Xem Lukács György: Đặc trưng mĩ học; Nghệ thuật và chân lí khách quan (Trương Đăng Dung dịch). Tạp chí Văn học nước ngoài, số 5/1998 và số 6/1999.
(2) Bản báo cáo thường niên tình hình văn học năm 2011 của Viện Văn học, chuyên đề “Tiếp nhận lí thuyết phương Tây hiện đại ở Việt Nam đương đại”, đã làm tốt việc này.
(3) Trong tinh thần này, chúng ta không ngạc nhiên về sự hoài nghi, tự phản biện của Tzvetan Todorov trong cuốn Văn chương lâm nguy (Trần Huyền Sâm và Đan Thanh dịch. Nxb. Văn học Hà Nội, tái bản 2013). Điều quan trọng là chúng ta cần hiểu đúng sự vận động của tư duy lí thuyết văn học ở phương Tây qua từng giai đoạn lịch sử.
(4) Martin Heidegger: Trên đường đến với ngôn ngữ (Trương Đăng Dung dịch), in trong Tác phẩm văn học như là quá trình. Nxb. KHXH, H., 2004.
(5) Xem Hoàng Lương Xá: Lí thuyết du hành và Orientalizm ở Đông Á, trong sách Nghiên cứu văn học Việt Nam, những khả năng và thách thức. Nxb. Thế giới, H., 2009.
(6) Xem Trương Đăng Dung: Những giới hạn của cộng đồng diễn giải. Tạp chí Văn học nước ngoài, số 2/2009.