Kết thúc cuộc thi tiểu thuyết 2 năm (2003 – 2005) của Hội Nhà văn Việt Nam, nhà văn Hoàng Đình Quang đoạt giải B nhờ tiểu thuyết “Cánh đồng lưu lạc”. Và, như bạn bè thường nói: Không chỉ cánh đồng của Hoàng Đình Quang lưu lạc mà bản thân nhà văn cũng lưu lạc không kém. Sự lưu lạc như ám vào ông đến nỗi không ít lần, ông phải thốt lên: “Cuộc đời tôi như một cánh chim thiên di”.

Đến giờ, nếu tạm tổng kết đời văn của Hoàng Đình Quang thì cũng hơi sớm. Ở tuổi 65, ông đã cho xuất bản khoảng 20 đầu sách, trong đó có tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ và một số cuốn sách mà bạn đọc quen gọi là “sách công cụ”.

Đứa con tinh thần đầu tiên của Hoàng Đình Quang là truyện ngắn “Dòng sông”. Tuy là truyện ngắn nhưng nó lại khá dài và được đăng những 3 kỳ trên Văn nghệ giải phóng vào năm 1974 – hồi Hoàng Đình Quang còn là lính miền Đông Nam Bộ và đang ở R. Cũng như nhiều người, sáng tác đầu tay này đã trở thành điểm xuất phát quan trọng của Hoàng Đình Quang và nhờ truyện ngắn này mà Hoàng Đình Quang được chuyển từ lính cao xạ về Báo Văn nghệ Giải phóng. Người có công đỡ đầu, có công đưa ông vào con đường viết văn là nhà văn Nguyễn Trọng Oánh. Ở đây, ông đã được gặp các nhà văn, nhà thơ đàn anh thuộc lực lượng Văn nghệ Giải phóng lúc đó như Văn Lê, Trần Ninh Hồ…

Từ đó đến nay, ông đã “lưu lạc” nhiều nơi và công tác ở nhiều cơ quan khác nhau trước khi nghỉ hưu vào năm 2011. Ban đầu là Thái Nguyên, Tây Ninh; sau đó là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Ban đầu là Báo Văn nghệ Giải phóng, Báo Phòng không; sau đó là Báo Thương mại và Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Ông chính thức chuyển ngành vào năm 1976. Khi rời quân ngũ, ông không trở về học tiếp Trung cấp Sư phạm Việt Bắc nữa mà chuyển sang học ở Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh.

Nhà văn Hoàng Đình Quang.

Khi có người gọi Hoàng Đình Quang là “con người lưu lạc” và “ông nghĩ sao?” thì Hoàng Đình Quang trả lời không chút ngần ngừ: “Theo tôi, lưu lạc là một khái niệm mà tôi luôn bị ám ảnh trong ý thức. Ở tuổi này, ít nhất tôi cũng có hai cuộc lưu lạc lớn. Lần thứ nhất, đi bộ đội từ Bắc vào Nam. Đây là cuộc lưu lạc có ý nghĩa.

Chiến tranh, suy cho cùng cũng là cơ hội để thử thách, rèn luyện tuổi trẻ. Lần thứ hai (sau 1975), thuyên chuyển nhiều đơn vị, cơ quan, vùng đất. Đây là cuộc lưu lạc vì mưu sinh thuần túy. Sự lưu lạc hay quá trình lưu lạc lần thứ hai của tôi có liên quan đến hoàn cảnh gia đình tôi: Cuộc sống khó khăn, đông anh em, bố tôi lại mất sớm. Vì là con trai cả nên tôi phải gánh trách nhiệm lớn của gia đình kiểu “quyền huynh thế phụ”. Thế rồi tôi vào lập nghiệp ở TP Hồ Chí Minh.

Trước và sau khi “an cư lạc nghiệp”, tôi đưa cả 4 em trai vào đây nữa. Hiện gia đình tôi có 5 anh em sinh sống và làm việc ở TP Hồ Chí Minh. Hai cuộc lưu lạc này, tôi đã tái hiện rất thật, có những chi tiết thật 100% như cuộc đời vậy, trong tiểu thuyết “Cánh đồng lưu lạc”.

Vì gắn bó lâu năm với Sài Gòn nên Hoàng Đình Quang “gọi” ra chất Sài Gòn rất nhanh. Ông bảo: “Người Sài Gòn rất lữ thứ và hiếu động. Nhịp sống thì sôi động nhưng tâm hồn người Sài Gòn lại rất hợp với nhịp điệu nhịp nhàng, thướt tha, tình cảm trong âm nhạc như rumba, bôlêrô… Người Sài Gòn sống rất dân chủ, cởi mở, dễ chấp nhận người khác… Người Sài Gòn vẫn có tâm lý “sáng xích lô, chiều ông chủ”. Tuy vậy, xét về mặt bản sắc, người Sài Gòn vẫn có những cái gần như bất biến hoặc ít thay đổi”.

Theo quan sát của ông, từ 1954 đến nay, ít nhất, vùng đất này cũng thâu nạp vào mình nhiều dân di cư và sau này trở thành dân ngụ cư. Đó là các đợt di cư từ 1954 của người miền Bắc, di cư từ 1968 của người miền Trung và sau này. Có điều lạ là những người ở nơi khác đến Sài Gòn đều bảo lưu truyền thống của họ. Nếu bây giờ, có ai đó quá bộ đến Gò Vấp mà ăn một bữa cơm khách trong một gia đình người Bắc di cư từ năm 1954 xem. Ăn xong, chắc chắn vẫn sẽ được mời rửa tay trong một chậu thau và mời dùng tăm sau bữa như bao giở bao giờ. Ngay cả giọng nói, cách phát âm của họ, cũng thế. Có cảm giác như sau nhiều năm, họ chẳng thay đổi gì cả. Nêu thế mà Hoàng Đình Quang vẫn không lấy làm lạ. Bởi theo ông, mọi sự tồn tại đều có cái lý rất khách quan của nó.

Mặc dù ở trỏng lâu đến vậy nhưng Hoàng Đình Quang vẫn không tự nhận mình là người Sài Gòn. Ông khẳng định: “Không. Tôi chỉ là người Sài Gòn gốc Thái Nguyên thôi! Nhưng tôi luôn chịu ơn Sài Gòn, chịu ơn người Sài Gòn đã cưu mang, đùm bọc, yêu thương tôi và gia đình tôi. Nếu ví Sài Gòn như văn hóa chẳng hạn, thì Sài Gòn có thêm một thuộc tính: Hàm chứa vào mình những nét tạm coi là khác biệt của những miền đất khác.

Mà chẳng cứ gì Sài Gòn. Ở nhiều đô thị lớn ở nước ta và trên thế giới cũng thế. Có điều là do ở đây đã lâu nên tôi “chứng” được thực tế này rất rõ qua lăng kính chủ quan”. Ông nói thêm: “Tôi rất mê văn của nhà văn người Nam Bộ Trang Thế Hy. Văn Trang Thế Hy hấp dẫn vì thông tuệ. Thêm nữa, Trang Thế Hy rất quan tâm đến các nhà văn thế hệ sau ông. Sinh thời, mỗi khi đọc tôi, ông thường nói với tôi giọng thân mật, gần gũi có sự động viên rất lớn: “Mày cứ viết đi! Tao hiểu mày mà!”.

Hoàng Đình Quang là người mê Balzac. Ông thích nhà văn người Pháp này vì văn vừa hấp dẫn, vừa đa dạng. Balzac có thể đùa cợt trên từng số phận và đùa cợt với chính bản thân mình. Đấy là ở nước ngoài. Còn trong nước, ngoài Trang Thế Hy, ông thích cả Nguyễn Khải. Theo ông, văn Nguyễn Khải sắc lạnh, chỉn chu. Thêm nữa, ông trân trọng Nguyễn Khải vì Nguyễn Khải hay quan tâm đến lớp trẻ. Sinh thời, Nguyễn Khải thường nói với các nhà văn trẻ: “Là nhà văn ở ta thì cứ trông nhau mà viết là được rồi”.

Hoàng Đình Quang tự nhận mình là “người có duyên” với giải thưởng văn học. Trong quãng đời mấy chục năm cầm bút, ông đã đoạt nhiều giải thưởng về thơ, về tiểu thuyết. Trong đó, đáng kể có tập thơ “Nói thầm” (Giải thưởng Hội Nhà văn và Bộ Quốc phòng), tiểu thuyết “Những ngày buồn” (Giải A Văn học công nhân của Tổng Liên đoàn Lao động), tiểu thuyết “Cánh đồng lưu lạc” (Giải B Hội Nhà văn), tiểu thuyết “Xuân Lộc” (Giải thưởng của Bộ Quốc phòng) và mới đây nhất là tập truyện ngắn “Một người Sài Gòn” (tặng thưởng Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh).

Hoàng Đình Quang tự nhận mình thích viết văn xuôi và có sở trường về văn xuôi. Có lần, ông tâm sự: “Còn thơ ư? Với tôi, thơ có cái đặc biệt và tính phổ quát cao, lại có những lợi thế mà văn xuôi không có được. Làm thơ khó quá! Tôi không làm thơ thì không chịu nổi, nhưng thời gian này, mình làm thơ chưa được lắm”.

Về việc đến với thơ, Hoàng Đình Quang nhớ lại: “Lúc sắp giải phóng Đà Nẵng (quãng tháng 3 năm 1975), nhà văn Nguyễn Trọng Oánh “kêu gọi” chúng tôi: “Các ông ơi! Sắp giải phóng Đà Nẵng rồi, mỗi ông làm cho tôi một bài thơ để kịp phát trên Đài Phát thanh Giải phóng. Nhớ đừng có quên đấy!”. Vậy là tôi làm ngay một bài thơ hưởng ứng và từ đó chính thức đến với thơ”.

Tính đến nay, Hoàng Đình Quang đã hai lần “lưu lạc” sang thơ. Ông đã cho xuất bản 2 tập thơ: “Nói thầm” và “Hát chẳng theo mùa”.

Tôi nhớ một câu thơ rất trải nghiệm của Hoàng Đình Quang: “Đôi khi, phải tốn rất nhiều tiền mới bỏ được một thằng bạn”. Còn Hoàng Đình Quang lại nhớ những câu thơ như vận vào hoàn cảnh của ông, của gia đình ông, của bạn bè ông, của những người quanh ông vào những khoảng thời gian mà đất nước còn đầy rẫy khó khăn. Hình như đấy là nỗi lo, nỗi buồn làm con người ta phải suy nghĩ, trăn trở để vượt lên, để lớn dậy. Rồi ông chậm rãi đọc như thể đang nhấn nha từng câu, từng chữ:

Ơn trời đất, ơn mẹ cha
Đội ơn vợ đã vì ta mà nghèo
Rượu cho chồng, cám cho heo
Tình tang cho nợ, bọt bèo cho thơ…

Tôi gặp Hoàng Đình Quang lần đầu ở Đại hội Nhà văn năm 2005 tổ chức tại Hà Nội và thân quen với ông ngay từ đó. Có vẻ như chúng tôi đã có duyên nợ với nhau từ kiếp nảo kiếp nào. Lần nào, có dịp vào Sài Gòn, tôi cũng tìm gặp ông. Còn ông, có lần khi ra Hà Nội công tác, vì eo hẹp về thời gian, trước lúc ra sân bay Nội Bài trở lại Sài Gòn, ông và tôi vẫn kịp uống với nhau một ly cà phê, nói với nhau dăm câu ba điều, đọc cho nhau mấy câu thơ vui, thế là cũng xong một lần gặp gỡ đáng nhớ.

Theo Đặng Huy Giang – Văn nghệ công an