Trong cuộc trò chuyện với nhà phê bình Bùi Việt Thắng, nhà văn DiLi chia sẻ: “…tôi luôn lo lắng một ngày đẹp trời nào đó sẽ bị độc giả bỏ rơi. Đó chính là cái ngày tôi sẽ dừng bút. Điều này cũng hệt như khi ta yêu một người và rồi đến một ngày người kia không còn yêu ta nữa. Nhiều người có khả năng yêu đơn phương, còn tôi thì chịu. Tôi không thể cứ cố yêu hoặc cứ cố viết khi độc giả thưa vắng dần”. VanVN.Net xin chuyển tới bạn đọc cuộc đối thoại thú vị này.

Nhà văn DiLi

– Nhà văn Bùi Việt Thắng (B.V.T): Mỗi người viết lúc khởi đầu sáng tác đều muốn chọn cho mình một bút danh, càng mới lạ càng hay, càng gây sự chú ý của độc giả. Gần đây xuất hiện những bút danh lạ như Keng (tên thật là Đỗ Thùy Linh), Hà Kin (tên thật là Vũ Thu Hà)… Còn Di Li?

– Nhà văn Di Li (D.L): Đến truyện ngắn thứ ba thì tôi gửi đến báo Người Hà Nội. Nhà thơ Bế Kiến Quốc lúc đó là Tổng Biên tập đã gợi ý không nên đặt dưới tác phẩm của mình một cái tên, dù rất đẹp nhưng đơn giản, dễ bị lẫn vào số đông. Rồi sau đó nhà thơ tài hoa này đã tìm cho tôi một cái bút danh: Di Li (ghép hai chữ cái đầu của chữ đệm và tên). Tôi nghĩ bút danh này sẽ đi suốt đời văn của mình. Tôi hay nghĩ nhiều đến từ “định mệnh”. Đôi khi một bút danh cũng là định mệnh vậy.

B.V.T: Theo nhà văn có thể có một cách hiểu khác về cái gọi là “vốn sống” đối với người sáng tác?

– D.L: Nhà văn Mario Vargas Llosa cho rằng sự tưởng tượng thuần túy không tồn tại trong các lãnh địa của văn học. Tôi cũng nghĩ như vậy. Trí tưởng tượng của nhà văn, dù có bay bổng đến mức nào cũng phải bắt nguồn và gắn kết với trải nghiệm của nhà văn đó, cho dù là thể loại khoa học viễn tưởng. Muốn viết truyện khoa học viễn tưởng, nhà văn cũng phải hiểu rất nhiều về các ngành khoa học. Vì thế các nước kém phát triển đâu có tồn tại thể loại này. Nhưng có trải nghiệm và văn phong tốt mà không có trí tưởng tượng phong phú thì người đó sẽ không trở thành nhà văn mà thành nhà báo thì tốt hơn.

B.V.T: Đúng như thế! Sau khi đăng quang tại Cuộc thi truyện ngắn (2005-2006) do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức, từ năm 2007 đến 2012, DiLi đã ra mắt bạn đọc 6 tập truyện ngắn, 1 tập bút kí, 1 tập tản văn, 1 tập chân dung văn học và một tiểu thuyết dài ngót 600 trang (chưa kể các tác phẩm văn chương dịch từ tiếng Anh và giáo trình tiếng Anh chuyên ngành Thương mại). Chưa tính đến sự đánh giá của văn giới, chỉ tính đến công việc của một người vừa sáng tác vừa dạy học, đã làm được trong chừng ấy thời gian, cũng đủ để nhiều người tâm phục khẩu phục! Viết được như thế, theo DiLi, là nhờ có nhiều vốn sống hay nhờ vào trí tưởng tượng?

– D.L: Trí tưởng tượng tôi có từ lúc còn nhỏ, nhưng khi còn rất trẻ, tôi đâu có viết được. Thậm chí cuốn Nhật ký mùa hạ đơn giản là những câu chuyện ghi lại hồi ức tuổi học trò, vậy mà mãi đến năm ngoài 20 tuổi tôi vẫn chưa thể viết được. Tôi chỉ có thể hoàn thành nó khi đã thật chín chắn. Vốn sống và trải nghiệm thường lại không phải là thứ mà ta trải qua để rồi chép vào, mà chính là nguồn “đầu vào” dồi dào để định hình nên tư duy và thế giới quan của nhà văn, để rồi khi tưởng tượng thì trí tưởng tượng được phái sinh từ chính cái nền văn hoá và thế giới quan của người đó. Vì thế, dễ hiểu khi đọc văn của một người, ta hình dung ngay được xuất thân, giáo dục, tính dân tộc, tư duy thẩm mỹ… của nhà văn đó.

B.V.T: Người ta vẫn nói đến vai trò quan trọng của những “ấn tượng” đời sống đối với người sáng tác. Trong quá trình viết, DiLi đã sống với những ấn tượng như thế nào?

– D.L: Ấn tượng đời sống, đối với một người bình thường, tôi nghĩ có khi quan trọng, có khi không. Nhưng với nhà văn thì lúc nào cũng quan trọng. Chẳng hạn, cách đây hơn mười năm, trong một chuyến đi rừng, tôi phải nghỉ lại ở một quán trọ ở thị trấn Nho Quan (Ninh Bình), lần đầu tiên tôi nghe tiếng gió hú trong đêm. Lần đó tôi đã trải qua nhiều cảm giác và cho đến giờ, tiếng gió hú đầu tiên ấy và cũng là duy nhất ấy đã thuộc về kí ức, một kí ức luôn xao động những âm thanh thuộc về miền bóng tối.

B.V.T: Viết truyện ngắn, như người ta vẫn nói, rất cần những ấn tượng như thế. Vì mỗi truyện ngắn là một trường hợp, một cảnh huống tâm trạng, một biến cố có ý nghĩa bước ngoặt đời sống. Nhưng để viết được một cuốn tiểu thuyết dài như “Trại Hoa Đỏ” thì Di Li đã huy động ấn tượng như thế nào?

– D.L: Tôi vẫn nghe các nhà văn, nhà lí luận – phê bình chỉ ra rằng muốn viết tiểu thuyết cần phải trường vốn, hiểu là vốn sống theo quan niệm truyền thống. Đúng là khi viết một truyện ngắn, cần phải tựa vào một ấn tượng nào đó. Nhưng khi viết một tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết dài như Trại Hoa Đỏ (gần 600 trang), thì ấn tượng vẫn là chỗ dựa quan trọng, rất cần thiết, nhưng không đủ. Điều cốt tử nhất là cần phải huy động tối đa trí tưởng tượng của nhà văn. Nhưng, dù là tưởng tượng bay bổng đến đâu cũng phải trên một nền tảng hiện thực vững chắc. Cái nền hiện thực ấy là tổng hợp những gì nhà văn đã sống, đã trải nghiệm, đã chứng kiến, đã nghe kể, đã đọc…, rồi liên tưởng. Chẳng có tưởng tượng nào mà không bắt đầu từ chân trời hiện thực. Mỗi khi viết xong một truyện ngắn, tôi cảm thấy sảng khoái, nhẹ nhõm. Nhưng khi viết xong tiểu thuyết Trại Hoa Đỏ, bản thân cảm thấy như là kiệt sức. Kiệt sức vì đã vắt óc ra để suy nghĩ, để bài binh bố trận vì viết tiểu thuyết là tổ chức một trận đánh lớn.

– B.V.T: Ở bìa 4 tiểu thuyết “Trại Hoa Đỏ” có dẫn một nhận xét: “Đọc Trại Hoa Đỏ, dù có trí tưởng tượng phong phú, bạn cũng sẽ khó mà đoán được điều gì về kết cục rất bất ngờ của câu chuyện” (hnv. vn). Như vậy là để viết được một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn, tác giả phải sở hữu một trí tưởng tượng lớn gấp nhiều lần độc giả?

– D.L: Xin thú thật là, tôi cũng chưa thể nói dứt khoát rằng trí tưởng tượng của nhà văn cần phải lớn hơn độc giả nhiều lần, hay biết đâu ngược lại cũng nên! Thật ra thì nhà văn, trước hết cũng là con người như đồng loại của mình mà thôi. Trí tưởng tượng của một người là có giới hạn mà cuộc đời thì vô hạn. Đó là một mâu thuẫn muôn thuở, nhà văn thời nào cũng phải đối diện.

B.V.T: Vậy theo DiLi, bằng cách nào nhà văn nuôi dưỡng được trí tưởng tượng của mình để sáng tác?

– D.L: Không thể nuôi dưỡng trí tưởng tượng bằng nước lã được, cũng không thể bằng cách thủ công là đi thực tế. Đi thực tế là để nạp vốn sống mới và gây cảm xúc, nuôi dưỡng cảm xúc chứ không chỉ nhờ đi thực tế mà thành thông thái. Bởi vì tôi biết có người Việt Nam mình ở nước ngoài đến mười năm trời mà vẫn không nói được cho tử tế tiếng nước sở tại. Một nguồn nuôi dưỡng trí tưởng tượng của nhà văn – đó là sách, là văn hoá đọc. Có nhiều cách học, học trong đời sống, học trong sách vở, học bằng trí tưởng tượng – đó là khả năng suy đoán, khả năng đặt giả thiết, khả năng phân tích và tổng hợp. Và nữa, là tình yêu cuộc sống, con người đến cái mức đốt cháy trái tim đến thành trí tuệ và đốt cháy trí tuệ đến thành trái tim như một nhà văn lớn đã nói.

B.V.T: Câu hỏi cuối cùng đặt ra cho Dili – Nếu như đến một ngày nào đó, khi cảm thấy năng lực tưởng tượng của bản thân bị mai một, thậm chí không còn nữa, lúc đó liệu tác giả của những cuốn sách có nhiều người đọc trong quá khứ, sẽ hành xử như thế nào?

– D.L: Tôi có một lòng kiêu hãnh và tự trọng quá đáng, đến độ đôi lúc đâm biến thành… mặc cảm. Có lẽ không nhiều người biết sau mỗi lần ra một cuốn sách, tôi thường gọi điện đến đơn vị phát hành và hỏi xem sách có bị ế hay không. Phần vì các nhà sách thường rất kỳ vọng vào số lượng sách bán ra của tôi, nếu sách ế thì tôi cũng ngượng với họ. Phần vì tôi luôn lo lắng một ngày đẹp trời nào đó sẽ bị độc giả bỏ rơi. Đó chính là cái ngày tôi sẽ dừng bút. Điều này cũng hệt như khi ta yêu một người và rồi đến một ngày người kia không còn yêu ta nữa. Nhiều người có khả năng yêu đơn phương, còn tôi thì chịu. Tôi không thể cứ cố yêu hoặc cứ cố viết khi độc giả thưa vắng dần. Nhiều nhà văn vẫn duy trì viết bằng cách níu kéo vào một niềm tin mãnh liệt: Có thể bây giờ độc giả không hiểu nổi ta, có những danh nhân đến thế kỷ sau mới được nhận diện kia mà. Tôi không nghĩ được như thế. Tôi chỉ nghĩ rằng ở thời đại internet mà một phần triệu giây thông tin đã dội đến toàn cầu, nếu không ai muốn đọc sách của tôi nữa thì là do tôi viết dở thật chứ không phải do độc giả không đủ thông minh để nhận diện ra mình.

B.V.T: Cảm ơn nhà văn DiLi đã tham gia cuộc trò chuyện lí thú và bổ ích này.

———————————————–

DiLi tên thật là Nguyễn Diệu Linh. Sinh năm 1978 tại Hà Nội. Tốt nghiệp trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội (nay là Đại học Hà Nội), cử nhân tiếng Đức – Anh. Thạc sĩ Quản lí Giáo dục, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Từ năm 2.000 đến nay là giảng viên tiếng Anh, trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Hà Nội. Tác phẩm chính đã xuất bản: Trại Hoa Đỏ (tiểu thuyết trinh thám – kinh dị), Đảo thiên đường (bút kí ), Cocktail thị thành (tản văn), sáu tập truyện ngắn – Điệu Valse địa ngục, 7 ngày trên sa mạc, Đôi khi tình yêu vẫn hay đi lạc đường, Tầng thứ nhất, Tháp Babel trên đỉnh thác ánh trăng, Chiếc gương đồng. Năm 2012 DiLi vừa ra mắt độc giả tập chân dung văn học Chuyện làng văn. Tác phẩm dịch: Người yêu dấu (tiểu thuyết Mỹ), Người làm chứng (tiểu thuyết Mỹ), Giết người đưa thư (tiểu thuyết Mỹ), Bóng đêm bao trùm (tập truyện ngắn thế giới). Giải thưởng văn học: Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn (2005-2006) Tạp chí Văn nghệ quân đội, Giải thưởng Văn học Bộ Công an (2005- 2010) về đề tài “Vì an ninh tổ quốc và bình yên cuộc sống” với tiểu thuyết Trại Hoa Đỏ.


Exit mobile version