Lê Thiếu Nhơn
Thanh Tùng có tâm hồn như tơ trời, rất nhạy với những buồn vui của số phận, nên ông hay khóc.
Trưa 12.9, tôi còn đưa một đồng nghiệp cũ đến thăm nhà thơ Thanh Tùng. Ông yếu lắm, phải có máy trợ thở. Thế nhưng, biết có khách, ông gắng gượng mở mắt nhìn. Ông không nói được nữa, song vẫn nhận ra người quen, hai dòng lệ cứ ứa ra ngần ngận. Ôi, đôi mắt thi sĩ, yếu mềm và run rẩy trước những xúc động mong manh của cõi sống ngắn ngủi. Vậy mà, đêm 12.9, đôi mắt ấy đã vĩnh viễn khép lại với dương gian, với thi ca.
Nhà thơ Thanh Tùng
Nhà thơ Thanh Tùng đã ra đi. Vẫn biết ngày này không tránh khỏi, nhưng vẫn thấy xót xa. Từ nay, tôi đã mất một người bạn vong niên thân thiết như ruột thịt. Khi ông từ Hải Phòng vào Sài Gòn định cư, cũng là lúc tôi từ Phú Yên vào thành phố nhộn nhịp của phương Nam để học hành và làm việc. Hơn 20 năm qua, ông đồng hành cùng tuổi trẻ của tôi, và tôi gắn bó với tuổi già của ông. Ngồi giữa khuya viết về ông, tôi không biết phải bắt đầu từ đâu, bởi quá nhiều kỷ niệm cứ như những thước phim quay chậm lần lượt hiện về trong ký ức, vừa đẹp đẽ vừa cồn cào.
Thanh Tùng có một tâm hồn như tơ trời. Ông rất nhạy với những buồn vui của số phận, nên ông hay khóc. Ông không khóc thầm. Ông khóc nấc lên, không cần giấu diếm, không cần che đậy. Lần đầu tiên gặp nhau, tôi mời ông vào một quán bia nhỏ bên đường, Thanh Tùng đã khóc vì chứng kiến một đứa bé gầy gò bán vé số. Nhìn theo đứa bé thất vọng quay đi khi chúng tôi không mua vé số, đôi mắt Thanh Tùng nhạt nhòa dần. Đưa tay quệt nước mắt, Thanh Tùng ứng tác ngay mấy câu: “Tôi khốn nạn vì cái nghèo/ Không đủ tiền mua cho em một tấm vé số/ Mua cho tôi một niềm hy vọng/ Và mua cho em một chiếc vé vào tương lai”.
Thanh Tùng thích rong chơi, thích bạn bè. Thanh Tùng bộc bạch trong thơ: “Con chỉ của mẹ cha một nửa/ Một nửa còn của những quãng đường xa/ Của những cơn gió xé hết mình trên bến bãi/ Của những nỗi đau không biết mặt bao giờ”. Đến đâu, ông cũng viết được thơ. Gặp ai, ông cũng trìu mến trân trọng. Khi cô con gái Lan Hương chưa an cư lạc nghiệp ở TP HCM, Thanh Tùng rất vất vả, nhưng mỗi khi có cơ hội đặt chân tới vùng đất nào thì ông đều hào hứng phóng bút sáng tác. Ông xem đó là sứ mệnh âm thầm và thiêng liêng.
Đà Lạt ư, “một vùng trời trong đến nỗi/ tôi thành vẩn đục mà thôi/ tôi lọc tôi trong thác xối/ trong hương thơm của trái tươi”. Nha Trang ư, “em quăng cho con sóng/ lẽ nào tôi không biển/ em ném cho sợi buồn, lẽ nào không sương khói/ chỉ một chớp hôn thôi/ thì đã Nha Trang rồi”. Huế ư, “đi trong đêm tôi thầm đoán ra tất cả/ và có thể là sông Hương đang chảy vào tôi”. Tuy Hòa ư, “máu bây giờ chỉ còn trong màu hoa dâm bụt/ khói bây giờ chỉ là khói bếp/ mùi cơm thơm dắt díu ấm no về”. Hậu Giang ư, “một cây cầu ngả qua kênh/ mềm vòng eo của gió/ cho ta sang bên kia vùi vào miệt vườn”…
Năm 1995, Thanh Tùng được đi dự Liên hoan thơ quốc tế ở Hy Lạp. Lần duy nhất trong đời được ra nước ngoài, Thanh Tùng đã viết những câu thơ đầy phẩm chất công dân nước Việt mà những kẻ giàu sang nhưng thờ ơ với vận mệnh non sông phải xấu hổ: “Tôi đã ở ngoài vòng tay Tổ quốc/ Bây giờ tôi phải là tất cả/ Từ ngọn cỏ dại quê hương đến máu những anh hùng/ Như người thủy thủ sắp ra khơi, kiểm tra lại phần nước ngọt/ Tôi hát thầm bài Tiến quân ca”.
Thanh Tùng mê bạn bè như mê thơ. Mỗi khi tôi bận việc, không đưa Thanh Tùng đi được, thì ông tự chạy xe tìm bạn bè, khi thì bằng xe đạp, khi thì bằng xe máy. Tội nghiệp, ông vô tư có biết thời đại công nghệ số phải gọi điện thoại báo trước sự thăm viếng đâu. Mấy bận, bạn bè đi vắng, ông ngồi chờ cả buổi rồi lủi thủi về. Có hôm ông bị ngã xe, trầy trụa hết tay chân, lúc tôi còn đang hoảng hốt thì ông đọc luôn bài thơ như một thành quả chắt chiu phút giây tri kỷ hạnh ngộ: “Gặp về không ngủ nổi/ Hóa ra tình cũ rót vào nhau/ Rượu ấy bây giờ không có nữa/ Chỉ còn trong đáy của hồn sâu/ Ngày xưa ta ủ trong men dại/ Bây giờ mới đủ để mà say/ Tiền biết trả ai, ai nhận nổi/ Quê hương hun hút mấy trời mây/ Mỗi đứa lại vội vàng mấy ngả/ Bao giờ trở lại uống nhau đây?”.
Khoảng cuối năm 2016, Thanh Tùng phát hiện bị ung thư dạ dày. Ông ốm hẳn, nhưng cái mệt nhọc thể xác không khiến ông buồn bã bằng việc phải nằm một chỗ, không còn được thù tạc với bạn bè. Mỗi ngày tôi qua, ông đều hỏi thăm hết người nọ đến người kia. Và mỗi khi tôi chào tạm biệt, ông lại ao ước: “Giá như có thể tới chỗ Lê Xuân Đố, Trần Mạnh Hảo hoặc Nguyễn Vũ Tiềm để chơi cho vui nhỉ”. Thật sự những lúc ấy, tôi chỉ mong có thể cõng ông khắp Sài Gòn để được nắm tay những người quen.
Khi bệnh tình của Thanh Tùng ngày một nặng, con gái ông và tôi ướm thử tâm nguyện ông muốn chuyện hậu sự như thế nào, Thanh Tùng thều thào bảo: “Nghĩa trang Bình Dương, vì ở đó có nhiều bạn bè văn nghệ”.
Thanh Tùng cả đời theo đuổi thi ca. Sự nghiệp thơ của ông đủ để công chúng nhắc nhở và tôn vinh. Tuy nhiên, có một tâm nguyện mà ông vẫn ấp ủ là đi một vòng các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, để tiếp tục bồi đắp cho trường ca Nhịp điệu phương Nam mà ông viết nhằm tri ân mảnh đất đã cưu mang mình những năm tháng hoàng hôn kiếp người: “Thế là thơ có thêm chỗ trú/ Tôi tin có thể gõ cửa nửa đêm/ Uống rượu và khoác lác/ Tôi tin không phải trong mơ/ Mỗi cánh cửa mở ra có trời riêng rất thực…”. Tâm nguyện nhỏ nhoi vậy mà cũng đành dang dở. Đáng tiếc quá, nhà thơ Thanh Tùng ơi.
Sài Gòn, khuya 12.9.2017
Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh
Phạm Thúy Quỳnh đưa bài