Bạn tôi, nhìn từ một góc nghịch

Y: Đầu trọc mắt tròn kính cận vuông. Có thời y để tóc dài chấm vai, nhưng mắt vẫn tròn và vẫn kính cận vuông. Khổ người không có căn cứ gì để bảo là cao lớn lẫm liệt, nhưng cũng chẳng đến nỗi bị xếp vào hàng nhỏ thó quắt queo, nói chung là một thứ khổ người dễ lẫn vào đám văn nghệ sĩ đang nhộn nhạo sống, ăn nhậu, tán dóc, khóc cười và “hành” nghệ thuật giữa cái đất Sài thành bộn bề nhộn nhạo bây giờ.

Y, mượn chữ của cụ Tầm Dương Nguyễn Văn Tâm khi viết về cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, là cả “một khối mâu thuẫn lớn”. Mà ngẫm cho kỹ, không mâu thuẫn cũng không được. Con người không khi nào trùng khít với chính mình. Có mâu thuẫn thì người ta mới biết rằng mình tồn tại, chẳng phải thế sao?

Mâu thuẫn đầu tiên của y là mâu thuẫn giữa “sinh” và “sống”. Sinh ra trong một cái động trên kinh đô của các vua nhà Đinh, Lê hồi máy bay Mỹ cuồng khấu ném bom bắn phá miền Bắc. Thời “chuẩn bị sống” thì theo cha mẹ lên tận cao nguyên Nam Trung Bộ, tỉnh Đắk Lắk, suốt ngày ru rú ở trên chòi rẫy làm thằng canh thú vào ăn trộm ngô khoai. Sống, chẳng hiểu thế nào y lại sống giữa lòng Sài Gòn hoa lệ.

Có lẽ bởi thế mà đôi lúc y cứ ngơ ngơ ngáo ngáo nét mặt và cái nhìn của kẻ man dã bị lạc giữa chốn văn minh. Sinh ra trong gia đình con nhà thường dân – thuộc vào cái hạng dân mà ngày xưa hay được các nhà Nho tâm địa tử tế nói tới bằng hai chữ “xích tử” (con đỏ) với rất nhiều thương hại. Nhưng sống, y lại sống bằng sách vở, đọc và viết, tóm lại là hành nghề chữ nghĩa. Oái oăm thế.

Vì chẳng mấy con nhà thường dân nhờ chữ nghĩa mà đổi đời, thoát khỏi phận thường dân. Đã thế, con nhà thường dân kiêm nghề đọc sách lại nhạy cảm, hay bị rơi vào những đau đớn rúm ró hàn sỹ, nhất là trong tình trường: “Tiền không là lá em ơi/ Tiền là giấy bạc của đời làm ra/ Người ta giấy bạc đầy nhà/ Cho nên mới được gọi là chồng em” (Nguyễn Bính)…

May thay, vốn ít tin tưởng vào sự tồn tại của cái gọi là tình yêu ở phe chị em, nên hình như chưa bao giờ y lâm vào mấy cảnh khốn đốn động cỡn ái tình mà bạn bè văn nghệ của y thường gặp. Yên bình lấy vợ sinh con. Yên bình làm chồng làm cha. Hiềm một nỗi cưới phải con một ông trước kia cũng có chút ít tiếng tăm trong làng văn làng báo Sài Gòn, nhưng sau năm 1975 thì gần như gác bút.

Bố vợ nhìn thấy con rể in sách kìn kìn xem ra cũng… chạnh lòng. Nhưng chẳng sao, đại tôn sư cỡ Đào Hoa đảo chủ Hoàng Dược Sư khi thấy “Lạc anh chưởng pháp” vang danh thiên hạ của mình không qua mặt được “Hàng long thập bát chưởng” của ông con rể Quách Tĩnh đen thùi lũi thì cũng còn nổi cáu kia mà! Mâu thuẫn thứ hai của y là mâu thuẫn giữa “học” và “hành”.

 

Nguyễn Danh Lam (phải) và tác giả.

Lấy được một tý cái gen vẽ vời của ông bố, y thi vào Mỹ thuật Gia Định, được đào tạo bài bản chính quy ở đó suốt năm, sáu năm trời. Tưởng ra đời sẽ hành nghề vẽ, thôi không thành danh họa có tranh bán với giá cao ngất ngưởng thì cũng làm péc phơ măng khiến thiên hạ phải trầm trồ vì không hiểu gì, không thiết kế mỹ thuật cho sân khấu điện ảnh thì cũng chuyên chú vẽ bìa sách hoặc minh họa cho báo chí, trời đất xui khiến thế nào mà rốt cuộc y lại đi làm phóng viên cho một tờ báo có những mục chuyên chọc cười bọn trẻ con. Tội nghiệp, y bồi hồi thao thức không yên vì chuyện này.

Ngẫm cũng phải, dẫu gì thì y cũng từng được luyện trong một cái lò vẽ thuộc vào hàng danh giá nhất nước cơ mà, dẫu gì thì hồi sinh viên, y cũng được tiếng là một trong những thằng có tài bậc nhất trường cơ mà. Không lẽ bây giờ đành lòng chấp nhận miệng tiếng thiên hạ rằng y học vẽ mà không biết vẽ (dù rằng y vẫn cần mẫn vẽ tại gia, những bức tranh nhì nhằng loạn xạ, nhìn vào chỉ tổ đau mắt và thêm hoang mang trong lòng)? Vậy nên, y đưa cái học của y vào… văn chương.

Y viết một cuốn tiểu thuyết trong đó có nhân vật là một ông họa sỹ già. Ông rất có tài, một nghệ sỹ đích thực là nghệ sỹ – có nghĩa là không giống với một số không ít họa sỹ bây giờ, có tranh hợp với khẩu vị hội họa của Tây là cứ thế miệt mài nhân bản mình ra đem bán.

Ông có nhân cách, trải đời. Nhưng đến lúc cuối đời lại phải sống ở nước ngoài, tàn tạ héo hon như một cái cây bị người ta đem trồng ở nơi không hợp thổ nhưỡng. Chịu không nổi, ông trở về quê hương để rồi bỏ mạng không rõ lý do, thi hài ông được hỏa táng và được hòa vào với mênh mang sông nước. Đại loại như vậy, có lẽ đến chết y vẫn sẽ không chịu để nhân vật họa sỹ của mình nhem nhuốc tầm thường.

Mâu thuẫn nữa của y, trầm trọng hơn, là mâu thuẫn giữa “nghề” và “nghiệp”. Như đã nói, y sống bằng nghề làm phóng viên cho một tờ báo có những mục chuyên chọc cười bọn trẻ con. Y làm việc một cách rất có trách nhiệm. Bài vở bao giờ cũng đầy đủ, đúng hạn, và đảm bảo đúng tiêu chí. Tóm lại là y không để bản thân mình phải thấy hổ thẹn với đồng lương được nhận từ tòa báo. Nhưng đó là nghề, một thứ nghề mà đôi lúc phát phẫn, y gọi tên nó bằng cụm từ không được nhã cho lắm: “chùi mông cho bọn con nít”. Nghiệp của y là viết. Viết văn.

Cái nghiệp này có lẽ mọc mầm từ lúc y “chuẩn bị sống”, tức là từ lúc y làm thằng canh thú trên rẫy. Khi ấy, trong giai đoạn mà y gọi là kinh hoàng ấy, đói mờ mắt nên y ra sức ngốn ngấu văn học cổ điển Pháp, Nga, Trung từ tủ sách mấy trăm cuốn của ông bố, cái tủ sách ông luôn gìn giữ và mang theo bất chấp những tao loạn của thời cuộc. Tolstoi, Dostoievski, Turghenev, Balzac, Hugo, La Quán Trung, Ngô Thừa  Ân, Thi Nại Am, Lỗ Tấn… y xơi bằng sạch.

Chữ nghĩa có ma lực thật kinh khiếp hãi hùng. Nó khiến người ta có thể sống và chết. Nó gieo những hạt giống mơ ước trong tâm hồn con nhà thường dân đọc sách. Về Sài Gòn, y viết. Bắt đầu bằng những bài thơ đau buốt mối tình học trò. Nhưng cái giai đoạn ngây thơ đẫm đìa ướt át ấy qua rất nhanh. Y là người của văn xuôi.

Một thứ văn xuôi ngay từ đầu đã bỏ qua trình độ sao chép hiện thực mắt thấy tai nghe. Một ít hiện sinh, một ít kỳ ảo, một ít hậu hiện đại và vài ba thứ gia vị khác mà tỷ lệ pha trộn tùy theo hứng thú từng lúc, y “sản” ra cho đời những Bến vô thường (tiểu thuyết), Giữa vòng vây trần gian (tiểu thuyết), Mưa tháng mười một (tập truyện ngắn), Giữa dòng chảy lạc (tiểu thuyết).

Với cái tiểu thuyết Giữa dòng chảy lạc, chính là tiểu thuyết có nhân vật ông họa sỹ già đã nói, y ăn giải chính thức về văn xuôi của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010. Trước đó, truyện ngắn có tên Đất của y được giải nhì cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ năm 2006 – 2007. Nghĩa là vừa có tiếng, vừa có miếng. Và tất cả những sản phẩm của nghiệp văn chương này, y đều tạo tác trong khoảng rỗi rãi của thời gian làm nghề báo, tất nhiên, phải trừ đi khoảng thời gian y ngồi quán nhậu.

Ấy thế nhưng không khí quán nhậu cũng có cái hay của nó. Nhậu với bạn bè văn nghệ, y được tha hồ nói về Milan Kundera, Coetzee, Naipaul, Murakami, Mạc Ngôn, Lý Nhuệ… những tác giả văn chương đương đại nổi tiếng thế giới mà y đọc không bỏ sót. Nói, như một sự nhận thức lại, cụ thể hơn. Y bảo Milan Kundera như một thợ kim hoàn đầy tinh xảo trong cái viết, còn nghệ sỹ đích thực phải là Murakami.

Y bảo Mạc Ngôn viết hay, nhưng là cái hay của một anh nông dân viết văn; trí thức viết văn và viết văn đầy trí thức phải là Lý Nhuệ. Ngồi nhậu với y, tai ta trở nên bùng nhùng vì những khái niệm của triết lý hiện sinh. Và nhất là, ta cứ ngớ ra khi y sung sướng vì ông thi sỹ khùng – thiên tài Bùi Giáng không chấp nhận cách các nhà nghiên cứu hàn lâm dịch một khái niệm quen thuộc như “Sein” trong tiếng Đức thành “Tồn tại” hay “Hữu thể”, mà lại dịch là “Lù lù vật thể lai rai”.

Có lẽ vì thế mà sách của y, truyện ngắn và tiểu thuyết của y, cứ tồn tại theo kiểu “lù lù vật thể lai rai” trong cái đọc của người đọc. Chẳng hiểu y viết cái gì, nhưng cũng thấy… hay hay. Những nhân vật cứ chập chờn, chấp chới nửa khôn nửa dại, nửa mê nửa tỉnh, nửa tinh nửa lú trong sách của y, đôi khi, chính là cái Ta giữa cuộc đời đầy nhọc mệt này. Trót sinh ra làm người, chẳng biết làm sao nữa, cứ thế phải sống với phận người cho đến suốt kiếp! Đọc sách y, ta nghe thấy một tiếng thở dài đồng vọng với những nỗi niềm của chính mình…

Ấy vậy mà y rất sung sướng với chuyện đẻ con. Y triết lý: Con cái chính là sự nối dài của ta trong mai hậu. Không thể hiểu nổi? Ta là con cái nhà thường dân đọc sách, danh giá gì mà cần đến sự nối dài trong mai hậu? Vả lại, sống trên cõi đời vô thường hết sức này, khi mà chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai, mất mùa, đói kém cứ luôn rập rình hăm dọa con người, ai dám chắc rằng mình sẽ đảm bảo đứa trẻ do mình sinh ra được sống một cuộc sống an lành hạnh phúc, được tồn tại đúng tư thế một con người? Chẳng bảo sao cả, trung thành với triết lý của mình, y giúp vợ đẻ liền một trai một gái, cả hai đẹp như tranh vẽ (không biết rồi sau này có đứa nào sao lại cái bản chính gàn dở như y hay không nữa?).

Xong trách nhiệm rồi, giờ thì y yên tâm làm việc của mình. Cả đêm y thức để làm báo, viết văn, xem phim, nghe nhạc. Sáu, bảy giờ sáng y mới đi ngủ. Một, hai giờ chiều y thức giấc, xem như là lúc bắt đầu của một ngày. Cái lịch biểu sinh hoạt kiểu ấy chẳng phải đã phần nào đặt y ở phía bên kia của đám chúng sinh đó sao? Nhưng xét cho cùng, cũng chẳng hại gì đến ai cả.

Y, bút danh nhiều vô kể. Nhưng tên cúng cơm thì chỉ có một (đương nhiên), một cái tên rất hợp với cái thời mà người ta coi du lịch như một mũi nhọn phát triển kinh tế: Nguyễn Danh Lam

Nguồn: CAND