Có một khoảng thời gian khá dài sống ở Pháp, say mê tìm hiểu, học tập ngôn ngữ văn hoá, ngoài văn học viết, Hồ Chí Minh có một vốn liếng lớn về lời ăn tiếng nói của người Pháp. Sự hiểu biết ấy đóng vai trò rất quan trọng cho cả cuộc đời hoạt động cách mạng vĩ đại của Người.

Nguyễn Ái Quốc ở Pháp năm 1920.

Tháng 1-1956 Người viết bài báo Đảng Cộng sản Pháp thắng to chúc mừng thắng lợi của một đảng mà Người đóng vai trò là một trong những người sáng lập:

“Ở Mỹ, người ta không hiểu: Vì sao hồi 1951 luật tuyển cử phức tạp của Pháp đã chống được cộng sản, mà nay thì nó quay lại chống những người đã tạo ra nó.

Chắc bà con ta còn nhớ rằng: Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1951, Đảng Cộng sản Pháp chỉ được 94 ghế đại biểu, mà báo chí Mỹ đã la ó lên: ‘Suốt mấy năm nay, Mỹ đã bỏ cho Pháp hàng trăm triệu đôla, mà kết quả là cứ 4 người Pháp thì 1 người tán thành cộng sản. Thế là Chính phủ Mỹ đã đưa tiền đổ xuống biển, mất công toi dã tràng!…’. Ngày nay, Đảng Cộng sản Pháp thắng to như vậy, chẳng hay báo chí phản động Mỹ sẽ có thái độ thế nào?

Tục ngữ Pháp có câu: ‘Chó sủa mặc chó, xe cứ tiến lên’.

Chúng ta cũng nhớ rằng: Trong những năm kháng chiến, Đảng Cộng sản Pháp đã ra sức hô hào và lãnh đạo nhân dân Pháp chống chiến tranh thực dân và hết lòng ủng hộ nhân dân ta. Ngày nay, Đảng Cộng sản Pháp đòi Chính phủ Pháp thi hành đúng đắn Hiệp định Giơnevơ và ủng hộ chúng ta trong cuộc đấu tranh chính trị để thực hiện hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước.

Vì vậy, nhân dân Việt Nam ta thành thật chúc mừng nhân dân Pháp và Đảng Cộng sản Pháp đã thu được thắng lợi to lớn” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 2002, tập 8, tr. 112. Các ví dụ trong bài chúng tôi đều lấy từ bộ sách này).

Người mượn câu tục ngữ Pháp thật thâm thuý và rất đúng hoàn cảnh, bạn đọc hiểu ngay: “chó sủa” là “báo chí Mỹ đã la ó”, còn “xe cứ tiến lên” là Đảng Cộng sản Pháp “cứ tiến lên”.

Trong Thư trả lời ông H. (Thượng Huyền), viết ngày 9-4-1925 với bút danh L.T, Nguyễn Ái Quốc lấy một câu tục ngữ Pháp để làm rõ quan niệm của mình về tác phẩm văn chương:

“Một câu tục ngữ Pháp có nói: ‘Hứa hẹn nhiều bơ hơn là bánh mì’. Tôi nghĩ rằng một tác phẩm văn chương không cứ dài mới hay. Khi nào tác phẩm ấy chỉ diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, khi nó được trình bày sao cho mọi người ai cũng hiểu được, và khi đọc xong độc giả phải suy ngẫm, thì tác phẩm ấy mới xem như là một tác phẩm hay và biên soạn tốt” (Tập 2, tr. 157).

Ý của câu tục ngữ Pháp thật hay: không nên hứa hẹn nhiều, hứa hẹn nhiều mà không làm thì chỉ là vô nghĩa, không giá trị. Tác phẩm văn chương, trong lúc Tổ quốc lâm nguy thì cần sự thiết thực hơn là bóng bẩy. Quan niệm về tác phẩm văn học này hoàn toàn nhất quán với quan niệm sau này của Hồ Chí Minh: Văn hoá cũng là một mặt trận, nhà văn là chiến sỹ trên mặt trận ấy. Điều ấy cho thấy một trong những khía cạnh biểu hiện bản lĩnh Hồ Chí Minh là sự nhất quán về quan niệm trong suốt cuộc đời!

Ngày 25-7-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh có Thư gửi nhân dân Pháp sau cuộc hội kiến với Pôn Muýt, đại diện Cao uỷ Pháp Bôlae, có đoạn:

“Bọn quân phiệt thực dân đã bắt buộc chúng tôi phải tiếp tục chiến đấu, chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng, chúng tôi lấy câu châm ngôn hiên ngang của các bạn làm châm ngôn của chúng tôi:

‘Thà chết không làm nô lệ’.

Chúng tôi chiến đấu vì công lý. Chúng tôi sẽ tồn tại; chúng tôi sẽ chiến thắng” (Tập 5, tr. 129).

Câu châm ngôn Pháp nổi tiếng trên thế giới được sử dụng thật đúng với hoàn cảnh Việt Nam đã cố gắng để tránh một cuộc chiến tranh, nhưng bọn thực dân Pháp thì không muốn thế, bởi chúng quyết tâm chiếm lại nước ta. Đây là lá thư gửi nhân dân Pháp, mục đích là để cho nhân dân Pháp hiểu tình hình, hiểu người Việt Nam không muốn đổ máu, nhưng vì lòng tự trọng nên người Việt quyết không chịu hèn mất nước. Như người Pháp đã nói thế, “chúng tôi” sẽ làm theo câu nói ấy, hãy ủng hộ “chúng tôi”.

Cũng với tinh thần ấy, nhân kỷ niệm ba năm ngày toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh có Điện gửi nhân dân Pháp nhân ngày 19-12-1948:

“Dân tộc chúng tôi đã anh dũng chiến đấu. Dân tộc chúng tôi đã chiến đấu ‘không chút sờn lòng, không điều ân hận’, vì chúng tôi chiến đấu cho tự do, cho độc lập, và đối với nhân dân Pháp chúng tôi không thù hằn gì. Chúng tôi đã tỏ rằng chân lý, công lý, lịch sử và tương lai ở về phe chúng tôi. Chúng tôi sẽ thắng!” (Tập 5, tr. 535).

Có hiểu biết ít nhiều về nước Pháp thì ai cũng biết một câu châm ngôn nổi tiếng của hiệp sỹ Bayard của nước Pháp thời cổ: ‘không chút sờn lòng, không điều ân hận’. Câu trích có ẩn ý: nếu hiệp sỹ Bayard ngày xưa chiến đấu vì chân lý, công lý, thì chúng tôi nay cũng vậy, chúng tôi phải chiến đấu cho tự do, cho độc lập nên quyết tâm của chúng tôi và của hiệp sỹ của nhân dân Pháp là giống nhau. Hãy coi chúng tôi như là những hiệp sỹ Bayard của nước Pháp đang chiến đấu vì lý tưởng, vì “chân lý, công lý”.

Nguyễn Ái Quốc là một trong những người Việt Nam sớm tiếp xúc với văn học phương Tây, nhất là văn học Pháp. Trong tiểu thuyết Búp sen xanh, Sơn Tùng có kể lại đoạn đối thoại của Nguyễn Tất Thành với cha mình:

“- Thành, đang làm gì đó con?

– Cha đã về! Con mới mượn được bộ sách Những kẻ khốn nạn, con đã đọc, hay tuyệt cha ạ.

Quan Phó Bảng Huy cởi khăn áo treo lên móc, giọng ông chua chát:

– Những người khốn nạn, khốn nạn! Con đọc được sách Tây, con có thật tin là ở bên Pháp còn có nhiều người khốn nạn thật không?

– Qua những trang sách, con thấy ở bên Tây có vô số những kẻ khốn nạn cha ạ. Vẫn cái bất công, ‘kẻ ăn không hết người lần không ra’. Con người bị đày đoạ kinh khủng”.

Bộ sách Những kẻ khốn nạn mà cậu Nguyễn Tất Thành đọc là của Víchto Huygô (1802-1885), nhà văn Pháp nổi tiếng với những tác phẩm mang tính nhân đạo sâu sắc, bênh vực con người, tố cáo những bất công. Sau này khi sang Pháp, Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu kỹ về nhà văn này. Trong Thư ngỏ gửi ông Lêông Ácsimbô, có đoạn:

“Thưa ông Ácsimbô, trong lúc đợi cho ông có ‘một chức tước hiển vinh nhất mà người ta có thể mơ ước đến’ thì tôi xin phép nói rằng, nếu trước kia Víchto Huygô biết là hiện nay ông viết ra những điều như thế trên tờ báo của ông ta, thì ông ta đã không sáng lập ra nó” (Tập 1, tr. 138).

Tờ báo mà Nguyễn Ái Quốc nói ở đây là tờ Le Rappel xuất bản hằng ngày ở Pari có khuynh hướng chống Giáo hội bênh vực dân nghèo, do Víchto Huygô sáng lập từ 1869, hoạt động đến 1933. Chỉ một chi tiết nhỏ này cũng cho thấy Nguyễn Ái Quốc hiểu biết tường tận báo chí Pháp đương thời như thế nào.

Theo tiểu thuyết Búp sen xanh thì thời điểm này, khoảng năm 1906-1907, Nguyễn Tất Thành đang học tiểu học tại Huế đã đọc, học văn học Pháp. Sau này, trong một hồi ký, nữ văn sỹ Xtécnơ nhớ lại: “Tôi được biết rằng, Người rất am hiểu văn học Pháp, và trong thời thanh niên đã từng đọc với tất cả niềm say mê tác phẩm của Huygô, Dôla, Anatôn Phrăngxơ” (Báo Đại đoàn kết, ngày 12-5-1982). Chính Hồ Chí Minh đã kể lại là thời kỳ ở Pháp Người ‘có ý muốn là viết truyện ngắn’. RồiDám viết thử, là vì có một hôm xem hai quyển truyện nhỏ, một quyển của Anatôn Phrăngxơ, một quyển nữa là của ông Tônxtôi. Xem thấy các ông ấy viết giản đơn lắm, dễ hiểu lắm’ (Tập 7, tr. 123). Quyển truyện ngắn của Anatôn Phrăngxơ mà Người nói ở đây, rất có thể có truyện Trên đá trắng.

Trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, chính tác giả đã khẳng định: “Anatôn Phrăngxơ (Anatole France) và Lêông Tônxtôi có thể nói là ng­ười đỡ đầu văn học cho ông Nguyễn”.

Trên tạp chí Nhân đạo năm 1904 có đăng truyện Trên đá trắng của tác giả Anatôn Phrăngxơ, với bút pháp viễn tưởng tác giả miêu tả cuộc sống của nhân dân lao động trong Liên bang các dân tộc châu Âu khi đang ở đỉnh cao của chủ nghĩa cộng sản năm 2270. Truyện Con người biết mùi hun khói của Nguyễn Ái Quốc có lẽ chịu ảnh hưởng của Trên đá trắng khi miêu tả một viễn cảnh vào năm 1998 nhân dân kỷ niệm 50 năm cách mạng thành công của một nước Cộng hoà liên bang ở châu Phi. Chúng ta soi lại tiểu sử của nhà văn Pháp nổi tiếng này càng thấy Nguyễn Ái Quốc chịu ảnh hưởng là rất có lý. Anatôn Phrăngxơ (1844-1924), nhà văn Pháp, được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp năm 1896, giải thưởng Nôben về văn học năm 1921. Chính năm 1921 này ông tham gia đảng Cộng sản Pháp. Được coi là một trong những vị tiền bối của văn học vô sản với những tác phẩm xuất sắc: Lịch sử hiện đại (1897-1901), Cơ-ranh-cơ-bi-ơ (1904), Trên đá trắng (1905), Đảo chim cụt cánh (1905), Các vị thần khát nước (1912), Cuộc nổi loạn của các thiên thần (1914)… Các tác phẩm này thấm nhuần chủ nghĩa nhân đạo, đặt ra những vấn đề xã hội chính trị sâu sắc với văn phong nhẹ nhàng trong sáng và giễu cợt thâm thuý.

Trong Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ III của Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Bác Hồ trích hai câu thơ của hai nhà thơ cộng sản Pháp và Nga để động viên, khích lệ thanh niên phấn đấu vươn lên xây dựng chủ nghĩa xã hội:

“Nhà thơ Pháp, đồng chí Vayăng Cutuyariê viết: ‘Chủ nghĩa cộng sản là mùa xuân của loài người’.

Nhà thơ Xôviết, đồng chí Maiacốpxki viết: ‘Chủ nghĩa cộng sản là tuổi trẻ của thế giới do những người trẻ tuổi xây dựng nên’ ” (Tập 10, tr. 305).

Có lẽ từ hai câu nói này Hồ Chí Minh đã khái quát thành một quy luật biện chứng:

“Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” ( Tập 4, tr. 167).

Năm 1929, Bác Hồ từ châu Âu về nước Xiêm phát triển tổ chức Việt Kiều gây dựng cơ sở cách mạng, một hôm trên đường đi công tác Bác kể cho đồng chí của mình câu chuyện ngụ ngôn Pháp Trẻ con không nên nghe trộm. Chuyện rằng: “Có hai em bé vào chơi trong rừng. Mải mê nghe chim kêu, xem bướm lượn cùng những thú rừng kỳ lạ khác, trời sập tối lúc nào không hay. Hai em đang lo lắng thì gặp một ông cụ tiều phu. Cụ đưa hai em về nhà cho ăn và ngủ. Đến đêm, cụ ông bàn với cụ bà làm thịt gà để ngày mai thết hai em bé. Cụ ông nói: “Thịt con lớn hay con bé?”. Cụ bà bảo: “Nói khẽ chứ! Nói to, chúng nghe, chúng chạy mất…” Lúc này hai em vẫn còn thức, nghe thấy thế, đinh ninh là các cụ bàn cách thịt mình, nên lo sốt vó…” (Nhiều tác giả – Bác Hồ kính yêu – Nhà xuất bản Kim Đồng, 1970, tr. 31). Tưởng đó chỉ là câu chuyện vui nhưng đấy lại là một bài học chính trị về nhận định con người để gây dựng cơ sở cách mạng, mà như lời bình luận của Bác, có những người “có thái độ bề ngoài tuy thô lỗ như cục sắt nhưng bên trong lại là một tấm lòng vàng”. Theo chúng tôi, những câu chuyện ngụ ngôn mà Bác kể như truyện trên sinh động và thuyết phục hơn nhiều những bài học lý thuyết chay về mối quan hệ giữa hiện tượng và bản chất, giữa hình thức và nội dung… trong việc nhận xét cá nhân, xây dựng tổ chức cách mạng.

“Trái lại, giống như con chó trong chuyện ngụ ngôn, họ lại thích đeo cái vòng cổ để kiếm miếng xương của chủ. Nói chung, quần chúng căn bản là có tinh thần nổi dậy, nhưng còn rất dốt nát. Họ muốn giải phóng, nhưng họ chưa biết làm cách nào để đạt được mục đích ấy” (Tập 1, tr. 64). Một sự phê phán đích đáng tâm lý nô lệ thảm hại ở những người dân bản xứ, vì ít học nên dốt nát, muốn giải phóng nhưng không có phương pháp nên đành chấp nhận sống trong u mê như kiếp chó vậy. Một so sánh vật hoá nhưng ý nghĩa thì vượt lên mang tầm thức tỉnh nhân dân các nước thuộc địa: phải biết tìm ra con đường giải phóng dân tộc!

“Bị thua to và sa lầy ở miền Nam, chúng muốn mở rộng chiến tranh đến miền Bắc hòng gỡ thế bí. Như thế khác nào con chó sói hai chân sau đã bị kẹt vào cạm bẫy, muốn thò cả hai chân trước vào cạm bẫy nữa để giải thoát cho hai chân sau! Thật là ngu xuẩn!” (Tập 11, tr. 404). Chúng tôi cho rằng so sánh này không chỉ đúng với tính cách mà còn đúng với cả hoàn cảnh giữa cái so sánh và cái được so sánh. So sánh bọn xâm lược Mỹ với chó sói là chính xác về bản chất: hống hách, hung dữ, hiểm độc, sẵn sàng ăn thịt cả đồng loại… Đồng thời cũng chính xác hơn, mỉa mai cay độc về tình cảnh của đế quốc Mỹ lúc này: “đã điên cuồng lại thêm ngu ngốc, luống cuống”. Không thể tìm ra một ví dụ nào diễn đạt đúng hơn hoàn cảnh của đế quốc Mỹ như ngụ ngôn này: “khác nào con chó sói hai chân sau đã bị kẹt vào cạm bẫy, muốn thò cả hai chân trước vào cạm bẫy nữa để giải thoát cho hai chân sau!”.

“Này cô, hãy xem ông bác mình ép mía lấy đường theo cái kiểu nghìn năm xưa cũ của dân ta, thì cô nghĩ ra được cái cảnh xã hội ở đây nó thế nào. Có bao nhiêu nước ép ngon ngọt thì cứ tuôn cả ra một bên cối, còn bên kia thì chỉ có bã, bẹt ra, quắt lại. Đây cũng thế. Một bên là giàu sang và nhàn rỗi, một bên là cần cù và thiếu thốn. Lôi thôi và gầy guộc như ngón tay khoằm khoằm của con mụ phù thuỷ già, ống lò sưởi ở Êpinét mùa hè thì um khói và mùa đông thì lại như tắt ngấm. Trông xa, nhà cửa khẳng khiu trong xóm giống y mặt người vậy, những bộ mặt người ngơ ngác mà cái bề mặt tiệm của một bác buôn giẻ rách hay của một hiệu thịt ướp lạnh thì làm ra dáng cái miệng móm, còn cửa sổ đã toác toạc thì dùng làm những con mắt nhẻm những dử lại cận thị” (Tập 1, tr. 70). Trong truyện cổ dân gian Pháp hay xuất hiện hình tượng con mụ phù thuỷ già “lôi thôi và gầy guộc”. Từ hình tượng ngón tay khoằm khoằm bạn đọc liên tưởng ra cả mụ phù thuỷ với “bộ mặt người ngơ ngác”, “cái miệng móm”, “con mắt nhẻm những dử lại cận thị”. Một so sánh thật độc đáo: cái máy ép mía và xã hội con người. Nếu ở máy ép mía là: “Có bao nhiêu nước ép ngon ngọt thì cứ tuôn cả ra một bên cối, còn bên kia thì chỉ có bã, bẹt ra, quắt lại” thì ở xã hội bất công cũng tương tự: “Một bên là giàu sang và nhàn rỗi, một bên là cần cù và thiếu thốn”. Cảnh nghèo khổ khốn cùng ở xóm thợ nghèo hiện lên với so sánh đặc sắc: ống lò sưởi, cũng xấu xí và khó tính “Lôi thôi và gầy guộc như ngón tay khoằm khoằm của con mụ phù thuỷ già”. Còn liên tưởng dành cho bạn đọc: xứ Êpinét thì như một “mụ phù thuỷ già” vậy.

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đặc biệt ưa thích ngụ ngôn của La Phôngten, những câu chuyện đậm tính chất giáo dục, triết lý đã trở thành cổ điển cho mọi dân tộc trên thế giới. Trong Thư trả lời ông H. (Thượng Huyền), lá thư đề ngày gửi 9-4-1925, Nguyễn Ái Quốc đã lấy ngụ ngôn La Phôngten để mỉa mai “những con chuột An Nam” đớn hèn:

“Khi tôi đọc đến phần này, tôi liên tưởng ngay đến bài thơ ngụ ngôn của La Phôngten: Hội đồng chuột. Thơ ngụ ngôn ấy đại thể kể như sau: Trong một nhà kia có một chú mèo cật lực săn diệt chuột không thương tiếc. Chuột ra quyết định sẽ treo chuông lên cổ mèo để khi bị mèo săn bắt, nghe tiếng chuông, chuột biết mà kịp chạy trốn. Nhưng không có con chuột nào dám tình nguyện treo chuông lên cổ mèo cả.

Phải, không một con chuột nào trong thơ ngụ ngôn của La Phôngten dám buộc chuông lên cổ mèo; tuy vậy, chúng đều căm ghét kẻ thù của chúng và đồng tình sẽ treo cổ nó lên. Những con chuột ấy thật là hơn hẳn ‘những con chuột An Nam’ không biết căm thù ‘những con mèo Pháp’ vì những con chuột này không biết đoàn kết lại để bàn việc tiêu diệt những con mèo kia, chúng sợ rằng trong hàng ngũ chuột của chúng sẽ có con đi báo với mèo Pháp.

Những người tự hào là dòng giống Rồng Tiên lại không bằng chuột! Thật là hổ thẹn, có phải không thưa ông!” (Tập 2, tr. 164).

Bác Hồ đã coi truyện ngụ ngôn như là một thứ vũ khí cách mạng, để phê phán, tố cáo kẻ thù, để cảnh tỉnh, thức tỉnh người nô lệ, kêu gọi dân ta đoàn kết, để giải thích tình hình… Chúng tôi tìm thấy một chi tiết trong Trả lời ông Vaxiđép Rao, thông tín viên hãng Roitơ, Người mượn câu chuyện ngụ ngôn để vạch trần một cách đích đáng luận điệu xảo trá của thực dân Pháp khi chúng gây hấn trở lại hòng cướp nước ta lần nữa.

“Hỏi: …Xin Chủ tịch cho biết ý kiến về lời tố cáo của những người Pháp nói rằng Việt Nam đã gây ra cuộc xung đột hiện nay?

Trả lời: …Nước Việt Nam không có lợi gì gây chiến tranh để làm cho nhân dân thiệt hại và chịu bao nhiêu tang tóc. Ông hãy nhớ lại bài ngụ ngôn của Lã Phụng Tiên Con chó sói và con cừu” ( Trả lời vào tháng 5-1947. Tập 5, tr. 134).

Truyện Con chó sói và con cừu kể một chú sói làm đục dòng suối, con cừu ra suối uống nước liền bị sói mắng là đã làm bẩn nước, cừu cãi lại, nói chính sói mới là kẻ gây ra. Chó sói liền đòi ăn thịt cừu. Ngụ ý của câu chuyện thật dễ hiểu: Phải chăng cái lý của kẻ mạnh mà độc ác (như sói) bao giờ cũng đúng? Không phải. Kẻ mạnh mà độc ác luôn đi ngược lại chân lý thông thường. Chỉ cần mượn một câu chuyện ngụ ngôn mà nói được bản chất của vấn đề: Pháp như con sói kia, là kẻ đi xâm lược, gây ra chiến tranh mà còn vu cho người Việt “gây ra cuộc xung đột…”. Đúng là không thể nói những gì, diễn đạt những gì chính xác hơn, hay hơn cách mượn ngụ ngôn này. Lã Phụng Tiên, tức La Phôngten (La Fontaine) là nhà ngụ ngôn người Pháp nổi tiếng thế giới, tác giả của Con chó sói và con cừu. Cũng thật thâm thúy khi Bác Hồ lấy chính một tác phẩm yêu thích của người Pháp nói chung để hài hước mỉa mai những người Pháp xấu – những kẻ thực dân.

“Lại cũng phải nhận rằng các nhà đi khai hoá của chúng ta đã không từ một sự cố gắng nào để cắm cho mấy con chim sẻ bản xứ – rất dễ bảo và rất ngoan ngoãn – vài cái lông công làm cho chúng trở thành những con vẹt hay những con chó giữ nhà. Và nếu nhân dân châu Phi và châu Á mà đ­ược ‘hoà bình’ và ‘thịnh v­ượng’ đến nh­ư thế này, thì chính những ‘vị đi gieo rắc dân chủ’ không biết mỏi mệt đó là con nhặng đánh xe chứ còn ai vào đó nữa?” (Tập 1, tr. 144).

Con nhặng đánh xe (la mouche du coche), tức câu chuyện con nhặng trong ngụ ngôn La Phôngten tự khoe mình đã có công đẩy chiếc xe nặng v­ượt lên con dốc. Nhà ngụ ngôn Nguyễn Ái Quốc mượn câu chuyện này để mỉa mai những kẻ đi khai hoá thuộc địa cũng chẳng khác gì con nhặng ấy. Cái xe “dân chủ” châu Phi châu Á phải tự nhân dân ở đó kéo lên dốc chứ đâu cần (và cũng không thể nhờ vào) những “con nhặng” các nhà khai hoá!

“Hãy nói đến vụ âm mưu gần đây nhất. Trong khi ở mẫu quốc có một vụ âm mưu bônsêvích nổi tiếng thì ở Đông Dương các ngài thực dân cũng muốn có một vụ âm mưu tương tự và… cuối cùng các ngài ấy cũng nặn ra một vụ âm mưu thật sự, chẳng khác nào như trong câu chuyện ngụ ngôn con nhái muốn phình to bụng như con bò” (Tập 1, tr. 38). Đó là câu chuyện ngụ ngôn của La Phôngten: một con nhái nhìn thấy con bò to hơn mình liền cố sức phình bụng để cũng to bằng con bò, rốt cuộc nhái vỡ bụng mà chết. Tác giả chỉ so sánh “một vụ âm mưu” với câu chuyện ngụ ngôn nhưng người đọc sẽ hiểu ngay kết cục của nó: câu chuyện bịa đặt âm mưu “bônsêvích” nọ cũng như con nhái vỡ bụng kia, tức là vì không có sự thật, dựa vào ảo tưởng nên thất bại, lại để cho mọi người chê cười.

Trong thời kỳ hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm đến văn học đương đại Pháp. Có khi Người dùng hiểu biết của mình vào mục đích chính trị để mỉa mai chế giễu chính sách phản động của nhà cầm quyền thực dân và giễu luôn cả thứ văn học ăn theo chính trị phản động, xa thực tế, sáo rỗng. Dưới đây là một ví dụ:

“Ngay cả trong các trang tiểu thuyết đăng trên báo, người bản xứ cũng đã giành được địa vị của mình. Ông Angiabe – ấy xin lỗi, ông Anbe Giăng chứ – đã chẳng kể chuyện rằng ở Hội chợ Mácxây có một chàng An Nam kia làm nghề kéo xe đã lọt được vào mắt xanh của một bà đầm xinh đẹp nọ. Sau khi đi thăm hội chợ về, bà bèn cho gọi anh xe đến phòng ngủ lộng lẫy của bà. Và vân vân… Người yêu bị cắm sừng của bà bỗng nhiên tới. Bối rối, lẩn núp, v.v… Nhưng cái chính của câu chuyện lại ở chỗ khác kia. Nguyên là chàng công tử kia đã đánh cắp được một viên ngọc bích bày ở gian thờ của Đông Dương và đem đến để khoe với người ngọc của mình. (Ôi! lương thiện vậy thay!). Người An Nam kia đứng nấp đằng sau trông thấy quả tang hành vi đầy tội lỗi ấy, liền nhảy ra đánh cho anh chàng ăn cắp ngã gục, rồi mang lễ vật quý đó về bàn thờ” (Tập 1, tr. 135).

Tác giả nhại một cốt truyện hư cấu của tiểu thuyết đăng báo qua cách tóm tắt, câu chuyện ấy có không gian: “Hội chợ Mácxây” và “phòng ngủ lộng lẫy”; có nhân vật: “một chàng An Nam kia làm nghề kéo xe”, “một bà đầm xinh đẹp”, “người yêu bị cắm sừng của bà”; có kịch tính cao trào, có cởi nút, có cả lời bình luận mỉa của người kể: “Ôi! lương thiện vậy thay!”… Một cốt truyện khó tin vì nó ngược đời: bà đầm xinh đẹp yêu một anh xe An Nam, anh xe An Nam đánh gục một kẻ cắp vốn “là chàng công tử”… Nhại lại câu chuyện ngược đời ấy để mỉa mai sự giả dối của thực chất về cái gọi là “Hội chợ Mácxây” chẳng qua chỉ là trò lừa bịp dư luận, đổi trắng thay đen, lộn sòng các giá trị…

Khi đã trở về phương Đông hoạt động, Hồ Chí Minh vẫn theo dõi thường xuyên đời sống chính trị và văn học Pháp. Đầu những năm 40 của thế kỷ XX, không riêng gì ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới có đảng cộng sản, kẻ thù đế quốc thực dân luôn tìm cách bôi nhọ, xuyên tạc, vu cáo đường lối tiến bộ của cộng sản. Trong Báo cáo về tình hình các đảng phái trong nước đọc tại Đại hội các đoàn thể cách mạng Việt Nam ở nước ngoài họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Quốc) tháng 3-1944, Hồ Chí Minh tóm tắt một vở kịch Pháp để vạch trần âm mưu bỉ ổi này:

“Quân thù mong muốn nước ngoài đồng tình với chính sách khủng bố của chúng, nên chúng quy tất cả các phong trào chống đối ở trong nước, thậm chí cả những hành vi bỉ ổi như phá nhà, cướp của đều đổ tội cho Đảng Cộng sản.

Có một nhà văn Pháp viết một vở kịch, nhan đề là ‘Hạnh phúc gia đình’. Vai chính trong vở kịch là một cặp vợ chồng mới cưới, cô dâu bị bệnh đau đầu, cô ả khăng khăng cho rằng mình bị cộng sản bỏ thuốc độc; và những chuyện như mèo nhảy làm vỡ đĩa bát trong bếp đến chuyện nướng bánh không chín, nấu súp không ngon, cô ả cũng đổ tội cho cộng sản cả. Qua đó đủ thấy tâm địa của kẻ thù và phản ứng ở nước ngoài là thế nào rồi! Có kẻ cho rằng ở Việt Nam, đâu đâu cũng là cộng sản, tất cả các đoàn thể, các tổ chức đều là cộng sản trá hình, tất cả mọi hành động đều do cộng sản ba đầu sáu tay chỉ huy!

Người Việt Nam có sợ cộng sản không ? Không. Cả nước Việt Nam chúng ta, không có một nhà băng nào là của người Việt Nam, không có một người Việt Nam nào là nhà tư bản lớn. Tài sản của chúng ta, một lần đã bị ‘cộng’ cho giặc Pháp, một lần bị ‘cộng’ cho giặc Nhật, còn có cái gì để mà ‘cộng’ nữa?” (Tập 3, tr. 463).

Một ví dụ tinh tế: ngay tại nước Pháp, một nước có tiếng là văn minh, văn học Pháp có tiếng là rực rỡ, nền chính trị Pháp có tiếng là dân chủ mà còn có những chuyện ngược đời như vở kịch kia, thì một nước như Việt Nam còn đang là thuộc địa Pháp thì những chuyện kẻ thù vu cáo, dựng chuyện cho cộng sản là dễ hiểu. Thế là bản chất đểu giả của kẻ thù được phơi bày, nhân dân thì hiểu, những người cộng sản chân chính thì an tâm. Còn riêng cộng sản ở Việt Nam, qua phép chơi chữ hóm hỉnh của tác giả thì, tài sản: không, “còn có cái gì để mà ‘cộng’ nữa” mà thành “cộng sản”!

Từ những điều trình bày trên ta thấy việc làm chủ ngôn ngữ, am hiểu văn học Pháp như một phương tiện hiệu quả đã góp phần giúp cho Hồ Chí Minh sáng tạo những kiệt tác văn chương cũng như đạt được mục đích cao cả trong sự nghiệp hoạt động cách mạng. Bài học rút ra: nhà văn càng có vốn sâu rộng về ngôn ngữ và văn hoá nước ngoài thì sẽ càng đạt được thành công trong sáng tạo nhờ được kết tinh vẻ đẹp từ nhiều nền văn hoá.

Nguyễn Thanh Tú

Nguồn: Tạp chí Văn học nước ngoài số 3/2012.