Selma Lagerlof giống như một người gìn giữ và phát triển những giá trị văn chương truyền thống của Thụy Điển trong thời hiện đại.
Năm 1909, Selma Lagerlof được trao giải Nobel vì những tác phẩm đã kết hợp được sự trong sáng và giản dị của ngôn ngữ, vẻ đẹp của văn phong và trí tưởng tượng phong phú với sức mạnh đạo lý và độ sâu của các cảm xúc tín ngưỡng. Bà là người phụ nữ đầu tiên trên thế giới được trao giải Nobel Văn học.
Ước mơ trở thành một nhà văn
Selma Lagerlof tên thật là Selma Ottiliana Lovisa Lagerlof, sinh ngày 20/11/1858 tại Marbacka, một làng nhỏ thuộc quận Ostra Amtervik, tỉnh Varmland, Thụy Điển.
Semal là con thứ năm trong gia đình có năm đứa trẻ. Cha của bà là một sĩ quan quân đội đã về hưu. Mẹ là hậu duệ của một dòng tộc danh giá lâu đời. Từ nhỏ Semal đã được dạy kèm ở nhà bởi cha và bà nội.
Dưới sự chăm sóc của bà nội, cô cháu gái đã được nghe những câu chuyện cổ tích, nhưng câu chuyện về quá khứ vinh quang của các thuộc địa vĩ đại trong vùng Varmland, thế giới của những kẻ săn mồi, những bữa dạ tiệc và những thứ mê tín dị đoan.
Từ nhỏ, tính tình Lagerlof vốn đã nhạy cảm, kín đáo và thơ ngây. Bà thường thích thú ở trong nhà đọc sách hơn là việc chạy nhảy trên những cánh đồng hoang dã với những trò chơi nghịch ngợm như anh chị em của mình. Hơn nữa, câu chuyện buồn xảy đến khi bà ba tuổi, cũng có tác động rất lớn đến nội tâm của Lagerlof sau này.
Một buổi sáng mùa hè, cô bé Lagerlof thức dậy sau một giấc ngủ ngắn và phát hiện ra chân mình tê cứng. Trong một năm sau đó, gia đình đưa cô bé đến bờ biển với không khí trong lành để chữa bệnh, và sau đó Lagerlof đã có thể đi lại.
Nhưng cô bé 4 tuổi luôn tin rằng, không phải biển hay không khí ấm áp mà chính là những cánh chim xinh đẹp của thiên đường đã chữa lành cho mình. Có lẽ cũng bởi niềm tin ấy, mà Lagerlof luôn viết những câu chuyện đẹp đẽ, giàu tưởng tượng.
Dẫu đi lại được những đôi chân của Lagerlof vẫn còn khập khiễng. Cô gái yếu đuối thường dành thời gian để khâu vá và đọc sách.
Nữ nhà văn Selma Lagerlof.
Từ nhỏ Lagerlof đã ước mơ trở thành một nhà văn. Bắt đầu từ khi 7 tuổi, khi cô bé đọc Oceana của Mayne Reid. Mặc dù, những người hầu gái trêu ghẹo rằng cô bé không có năng khiểu, nhưng Lagerlof luôn tự nói với mình “Có lẽ tôi có thể trở thành một nhà văn nếu điều đó chỉ phụ thuộc vào ý chí, chứ không phải năng khiếu. Vì tôi nghĩ tôi có tố chất đó.”
Lagerlöf là một người phụ nữ đa cảm hiểu được sự khác biệt giữa bề mặt và nội dung. Bà có sự quan sát tinh tế và nhạy bén, luôn để tâm đến những biểu hiện nhỏ nhoi của vạn vật xung quanh. Nhưng hơn hết, bà ghi nhớ tất cả mọi điều và kể về chúng một cách say sưa nhất.
Bà đã viết thơ từ nhỏ nhưng không xuất bản bất cứ thứ gì cho đến những năm 1890, khi bà tham gia vào một cuộc thi văn học nhỏ, và được giải thưởng.
Nhà xuất bản đã trao cho Lagerlof cơ hội được ký hợp đồng xuất bản toàn bộ những phần còn lại của câu chuyện thành một cuốn sách. Và tác phẩm đầu tiên của bà là những câu chuyện dân gian huyền thoại kể về Gösta Berlings được xuất bản với tên gọi Gösta Berlings Saga.
Gösta Berlings Saga được xuất bản lần đầu tiên năm 1891, nhưng tác phẩm đầu tay này bị xem là “không tự nhiên”, với cấu trúc “khá lỏng lẻo”. Cho đến mãi sau đó, khi nhà phê bình văn học nổi tiếng thế giới, Georg Brandes, cất lời khen ngợi cuốn sách có “phong cách mơ màng, nên thơ”. Từ đó, cuốn sách được chú ý hơn.
Năm 1895, được sự hỗ trợ tài chính từ Hoàng Gia và Học viện Thụy Điển đã khuyến khích Lagerdof bỏ dạy học để chuyên tâm viết văn. Bà đã đi du lịch ở ý và viết cuốn Antikrists mirakler (1897). Sau một vài tác phẩm nhỏ, Lagerdof tiếp tục ra mắt Jerusalem (1902), cuốn tiểu thuyết về những người nông dân Thụy Điển di cư đến Đất Thánh.
Những cuộc phiêu lưu của Nils là tác phẩm nổi tiếng nhất của Selma Lagerlof.
Thần thoại và tưởng tượng
Tác phẩm của Lagerlof bắt nguồn từ các huyền thoại, lịch sự Bắc Âu mà bà được học và đọc từ thời thơ ấu. Trước những biến động đầy rồi ren của lịch sử, nữ văn sĩ dường như quay lưng lại với phong trào thực tế thống trị và chọn một lối viết lãng mạn, giàu trí tưởng tượng về đời sống và cảnh quan nông thôn Bắc Thụy Điển.
Trong những sáng tác của mình, Lagerlof thường làm mờ đường biên giữa giấc mơ và thực tế. Đôi khi bà mượn những yếu tố trong truyện cổ tích hoặc tiểu thuyết siêu nhiên để tạo nên câu chuyện của mình.
Truyện Old Agneta, kể về một phụ nữ sống một mình trong một ngôi nhà trên bờ sông băng rộng lớn. Trong sự cô đơn của những ngọn núi, người phụ nữ bắt đầu nói chuyện với chính mình. Agneta cảm thấy rằng cuộc sống của bà thật trống rỗng, bà muốn chết, vì nghĩ không ai cần mình.
Một tu sĩ đến với Agneta và cho bà thấy mình không cô độc. Những linh hồn ở xung quanh bà. Và Agneta cần sống để sưởi ấm những linh hồn ấy. Bà đã hạnh phúc vì cảm thấy được sự cần thiết của mình. Sau khi người phụ nữ chết, ngọn núi được thắp sáng bởi những bóng ma với những ngọn lửa màu vàng bé nhỏ.
Các nhà chức trách Thụy Điển đặt hàng Lagerdof viết một cuốn sách có thể duy trì sự giàu có của văn hóa dân gian và truyền thống lịch sử của Thụy Điển. Đây là không phải là công việc khó khăn đối với nữ văn sĩ, bởi suốt thời thờ ấu bà đã nghe vô vàn những truyền thuyết từ cha và bà nội. Và Những cuộc phiêu lưu của Nils ra đời.
Câu chuyện về cậu bé tí hon bay khắp đất nước với những con ngỗng hoang dã được xem là cuốn sách thiếu nhi nổi tiếng nhất của Lagerlof, một phần cuốn sách được lấy cảm hứng từ truyện của Rudyard Kipling. Nhìn vào cách sống của Thụy Điển từ trên không và trên mặt đất, Lagerlof đã cho độc giả của bà biết nhiều thông tin về đất nước ở lĩnh vực địa lý, lịch sử và quá khứ thần thoại của nó.
Cuốn sách đã dành trọn trái tim của độc giả và mang về cho Lagerlof giải Nobel văn học. Cuốn sách đã được chuyển ngữ sang rất nhiều ngôn ngữ trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Lagerlof là người phụ nữ đầu tiên nhận giải thưởng văn học này. Không lâu sau bà cũng là người phụ nữ đầu tiên được bầu vào Học viện Thụy Điển.
Chân dung Selma Lagerlof được in trên tờ tiền 20 kronor của Thụy Điển.
Khoản tiền thưởng 40.000 USD của giải Nobel đã cho phép Lagerlof mua lại Marbacka, khu đất gần Đông Amtervik ở Varmland, nơi bà sinh ra. Nó được bán sau khi cha của Lagerdof qua đời và gia đình rơi vào cảnh túng thiếu. Ở đây, với những ký ức trước đó, nữ văn sĩ đã viết Marbacka, cuốn sách thiếu nhi về gia đình mình và những năm thơ ấu. Về người cha và người mẹ là hậu duệ của một dòng họ lâu năm.
Tưởng tượng là một phần quan trọng trong sáng tác của Lagerlöf. Phần lớn các tác phẩm của bà, dù viết cho thiếu nhi hay người lớn đều mang đậm dấu ấn của sự tưởng tượng. Korkarlen (1912) dựa trên huyền thoại rằng người cuối cùng chết trong đêm giao thừa phải lái xe cho thần chết trong năm tiếp theo.
Trong khuôn khổ một câu chuyện siêu nhiên, Lagerlöf đã giải quyết những vấn đề xã hội. Với nhiều cảnh hồi tưởng và sự xuất hiện của ma quỷ, bộ phim chuyển thể năm 1921 cũng được xem là một trong những tác phẩm điện ảnh kinh điển của Thụy Điển.
Lagerdof đã miệt mài sáng tác cho đến những năm cuối đời. Dù không còn viết nhiều cho thiếu nhi nữa, nhưng những sáng tác của bà vẫn chứa đựng đầy những huyền thoại dân gian của Thụy Điển, vẫn giữ được bản sắc vốn có xuyên suốt trong sự nghiệp sáng tác của mình.
Selma Lagerlof qua đời tại nhà riêng khi chiến tranh thế giới thứ 2 lan đến Bắc Âu, tháng 10/1940.
Theo Thủy Nguyệt
Zing.vn
Lê Thị Hồng Nhung đăng bài