Nhà văn Đỗ Bích Thuý.
Trong số bạn văn của tôi ở Hà Nội, Đỗ Bích Thúy là nhà văn tôi thường coi là bạn văn tâm đắc. Sự tâm đắc không cứ là bất kể cái gì cũng thản nhiên trùng hợp. Tôi là tạng viết đa nhân cách; những truyện ngắn dữ dội, ngôn ngữ trần trụi, gai góc, sần sùi như gạch ngói của tôi không làm cô thích bằng những truyện ngôn ngữ dung dị, mạch văn thơ, êm chảy, song Cô Thúy vẫn chấp nhận và cổ xúy. Đấy là một Đỗ Bích Thúy trượt qua cái bản ngã, cái tạng văn Cô Thúy. Điều rất cần cho nghề, sự thẩm định văn bản khác, khi ở vai trò biên tập viên văn học; cần nữa khi Đỗ Bích Thúy ở vai trò Phó tổng biên tập tạp chí VNQĐ, nơi cần con mắt tinh, chọn in những tác phẩm hay, cho một tạp chí có uy tín lâu nay.
Chúng tôi cũng ít khi gặp nhau, nhưng khi đã gặp nhau thì những chuyện về văn, về đời chả bao giờ chấm dứt, nếu một trong hai không ý thức phải chấm dứt“tám“ chuyện, để bạn mình có thời gian đi làm những việc đang chờ đợi.
Đỗ Bích Thúy là người kín đáo, không phải dạng buôn dưa lê hay tán nhảm mất thời giờ. Bấy giờ, cô như đóa hoa ban thầm kín phơn phớt dịu dàng, chưa buông cánh, như một cô gái thiểu số chỉ im lặng nhìn, cần mẫn làm việc mà không nói trong cái phòng văn ở Lý Nam Đế chật hẹp, có treo tấm chân dung nhà văn Nga Aimatop khiêm tốn đen trắng. Sự e ấp ấy sẽ ngáng trở, nếu như ai đấy không kiên nhẫn, trong bước đầu muốn trở thành bè bạn Thúy.
Một con người mang luôn theo quê hương, nơi miền sơn cước thăm thẳm nghèo khổ kia, về Hà Nội phồn hoa này, cả nỗi nhớ hằn gãy trên xương quai xanh Thúy gánh nỗi nhớ ở nơi sinh ra cô, cho cô hồn khí mà trở thành nhà văn, thì không khi nào là một kẻ vô tình, viết vô minh.
Văn chương Đỗ Bích Thuý phát lộ rực sáng từ cuộc thi truyện ngắn trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội 1988-1989. Một người sinh ra ở Hà Giang, gắn bó với nó, lớn lên đi làm báo lăn lộn với một nền văn hoá của nhiều sắc tộc, Đỗ Bích Thuý nổi trội ở cuộc thi năm ấy với chùm truyện ngắn: Sau những mùa trăng, Ngải đắng ở trên núi và Đêm cá nổi. Đặc biệt, sau cuộc thi không lâu, sự xuất hiện Tiếng đàn môi sau bờ rào đá khá thành công bảo đảm bút lực của Cô Thuý. Truyện ngắn Cô Thuý dự thi, rồi những sáng tác sau này tập hợp lại thành một số tập truyện ngắn như Sau những mùa trăng, Những buổi chiều ngang qua cuộc đời, Ký ức đôi guốc đỏ, Tiếng đàn môi sau bờ rào đá cho văn đàn Việt một câu bút mang đậm sắc màu nổi trội và riêng biệt, một vẻ đẹp Tây Bắc hiện đại: những dấu vết mang thanh âm kì diệu âm vang sau bờ rào đá, trên những mái nhà khói bếp như mây. Nó, chuỗi truyện ngắn ấy, không hoang sơ củi lửa như Tô Hoài thuở trước và sau 1954 nữa, truyện Cô Thuý ngồn ngộn bao nhiêu chất liệu đời sống của nơi các nhà văn hiện đại bấy nay sau Tô Hoài dường như bỏ quên, sót lại bao điều chưa biết của nhiều sắc tộc Mông, Nùng và Thái.
Những thân phận cuộc đời và khát vọng của con người trên rẻo cao của các vùng núi, mà tại đó văn minh đô thị là một thứ xa xỉ, vời vợi là điểm có tính nhấn, lặp đi lặp lại, dễ nhận thấy trong các truyện ngắn và tạp văn của nhà văn trẻ này. Tạng văn của Cô Thúy ở các truyện ngắn mang màu sắc u buồn như điệu khèn Vợ chồng A Phủ năm nao của Tô Hoài, nhưng lại đầy những chi tiết làm nhiều người ở nhiều vùng đất, kể cả hải ngoại ấn tượng, tỉ như từ cái thìa gỗ, tỉ như từ tiếng đàn môi và những quan sát rất tinh tế, mà chỉ có một trái tim nhạy cảm mới có thể nhận ra. Quan sát của Cô Thúy ở con người và hoàn cảnh sống cũng thấy được rõ cái đẹp kì thú trong tâm hồn của người thiểu số và cái đẹp của mảnh đất hoang sơ, thậm chí lạc hậu. Chuyện của Pao sau này là phim thành công lớn, nó gợi cho các nhà làm phim rất nhiều khuôn hình đầy ngôn ngữ điện cảnh, có cảnh đẹp tới nao lòng. Phải chăng là sự chia sẻ từ nhà văn tới các nhà làm phim, đồng nhất từ cái đẹp trong tâm hồn con người và cảnh trí gợi cảm mà Cô Thúy đã tạo nên ở nhiều truyện ngắn, khi lấy Tiếng đàn môi sau bờ rào đá làm trung tâm. Cái đẹp khai phá từ văn học trong tầng văn hóa ấy, làm ngay cả những người hiện sống nơi xứ núi ấy cũng bàng hoàng, khi nhận ra vẻ đẹp quanh họ bừng lên thêm từ chính văn chương của Đỗ Bích Thúy, như trường hợp bạn đọc của cô nickname là Hoa Anh Túc, một giáo viên trên rẻo cao đã phát biểu trên FB.
Khảo sát văn xuôi ở các nhà văn nữ tiêu biểu hai mươi năm qua, có thể dễ nhận ra rằng, những truyện ngắn và cả những tạp bút, tạp văn sau này của Đỗ Bích Thúy đã tạo nên một khuôn mặt văn chương viết về Tây Bắc không lẫn vào bất kì cây bút nào trước và sau cô, kể cả với nhà văn gạo cội chuyên viết về phía Bắc, có những tác phẩm lớn như nhà văn Tô Hoài. Đỗ Bích Thúy là đóa hoa văn Tây Bắc trong bàng bạc sương mù tháng Ba núi non địa đầu Tổ quốc, cùng trong chùm hoa lạ hiện đại đầy tính khác biệt, có thể hòa với văn chương thế giới, lại vẫn giữ, mang đậm sắc thái văn hóa vùng miền, đó là Nguyễn Ngọc Tư ở Nam Bộ, Trần Thùy Mai ở miền Trung, xứ Huế. Họ là những hiện tượng kì thú hấp dẫn của văn đàn nước ta hai thập kỉ qua.
Đấy là một giai đoạn phát lộ tập trung chủ yếu ở truyện ngắn và tạp bút. Đỗ Bích Thúy tự khám phá mình ở hai mảng khác nữa. Năm nào chị cho ra mắt tiểu thuyết Bóng của cây sồi và kịch bản sân khấu Diễm 500 đô hay quá khứ đòi nợ. Nhưng cả hai sự cố gắng này không vượt qua cái bóng của văn xuôi ngắn. Có lẽ sự thành công ở tiểu thuyết không thể dựa vào tài năng ở truyện ngắn, Bóng của cây sồi không phải cuốn tiểu thuyết dở, song cũng như kịch bản sân khấu của Đỗ Bích Thúy: Diễm 100 đô, chưa tạo ra sự đột phá gây nên sức ám ảnh. Những nhân vật tiểu thuyết mỏng, so với sự khắc họa sắc sảo như những nhân vật trong thể ngắn. Sự dung nạp mâu thuẫn tạo nên một kịch bản sân khấu có dư chấn không thành công ở Cô Thúy, nó lẫn vào lãnh địa sân khấu bấy nay vốn bình thường và có phần tẻ nhạt của sân khấu việt sau thế hệ Lưu Quang Vũ.
Nhưng cái con người vốn trầm tĩnh lại luôn gìn giữ ngọn lửa có bên trong một trái tim chưa hề nản.
Phải lột xác và thay đổi!
Đỗ Bích Thúy trở về Hà Nội, tách rời mảnh đất đầy thương yêu. Sự trăn trở bấy nay suốt hơn 10 năm làm quen với vùng đất mà cô tựa như cái cây bứng ra khỏi nơi sinh ra nó, trồng vào cái đất lạ kinh kì Hà Nội để Cô Thúy có nhiều thời gian rơi vào im lặng. Có thể như vậy nữa khi nhiệm vụ mới Phó tổng biên tập và chức năng làm dâu Hà Nội với hai con gái đã làm dòng chảy văn chương trong Thúy có lúc lắng xuống chăng? Đỗ Bích Thúy vẫn viết nhiều truyện ngắn khác. Gần đây tác phẩm in nhiều kì trên Văn nghệ, truyện vừa Lặng yên dưới vực sâu là khoảng tiếp nối khai thác cái kho báu bất tận về một vùng đất quen thuộc. Lặng yên dưới vực sâu chín đằm về văn chương, những chi tiết sống và ám ảnh, cách dựng truyện hấp dẫn, lôi cuốn trong sự phân chia trường đoạn hiện đại, đầy tính điện ảnh và vẫn thăm thẳm buồn về thân phận con người vùng cao. Nghe nói một nhà làm phim đã tức tốc đón nhận và mua đứt bản quyền. Nhưng con người Cô Thúy không còn nữa. Đỗ Bích Thúy vẫn trăn trở để lột xác?
Đọc Tập Trên căn gác áp mái của Đỗ Bích Thúy gần đây hiểu được phần nào sự đau đớn của suy tư: Một con người có trước Một nhà văn trong Đỗ Bích Thúy. “Quê hương bản quán và trách nhiệm, tấm lòng của mỗi cá nhân” là vấn đề được lặp lại nhiều lần trong sách. Tôi đánh giá cao tập tạp văn này, bởi nó chứa thêm trong đó ẩn ức không chỉ người xa quê mà lối viết, đường viết của một nhà văn phải tách bỏ môi trường văn hóa có tính cội rễ. Cũng là một cây bút tha phương như tác giả, dù ở cấp độ khác hơn, thì vẫn là sự xa lìa vùng văn hóa gốc, tôi chia sẻ sâu sắc trong những tầng chữ ở cuốn sách này. Những câu chuyện luôn có chuyện, đau đáu về vùng núi cũ, và đầy trăn trở với một vùng văn hóa hóa mới, Đỗ Bích Thúy không còn là một Cô Thúy thuở xưa nữa. Những tạp bút trách nhiệm, lắm trăn trở ưu phiền ở Trên mà là thực trong lòng của căn nhà áp mái đang muốn lột xác, quẫy đạp, nhằm tạo nên một khuôn mặt Đỗ Bích Thúy già dặn hơn về bút pháp, sâu sắc hơn về tư tưởng mà vẫn giữ vẹn tròn thủy chung với tình yêu cố hương và con người. Viết về tập sách này có lần tôi không giấu những giọt nước mắt bởi tính tình cảm của tác giả ở những đoạn mà một người thực trải sống có thể chia sẻ và nhận ra: “…Rốt cuộc, tôi thường nghĩ, con người khi đã tan vào đất đai, không còn hình hài đâu nữa, hơi thở mong manh cũng bị gió cuốn đi, thì cái duy nhất còn lại là nỗi nhớ nhung và niềm yêu thương da diết ngự trong những người còn sống dành cho họ…” hay là “…cuộc đời này có những ngã rẽ kì lạ, có những cuộc trao đổi kì lạ, có những sự di chuyển kì lạ. Và có những câu hỏi kì lạ không bao giờ trả lời…“ hoặc là: Nỗi nhớ từng dằn vặt tôi…Nỗi nhớ từng in hằn xương quai xanh của tôi…Tôi không mang nó đi được. Tôi phải để nó lại đó, giữa ba bề rừng núi, một bề sông Lô trong vắt, mong manh trôi. Tôi phải để nó lại đó, nó sẽ như khói sương trong mỗi chiều bảng lảng bay, nó sẽ như một cánh cò lửa, nhập nhoạng lại bay ra khỏi tổ” Những trang viết như thế bộc lộ một tâm thức rất đay nhức, day dứt của nhà văn và nó thầm hứa hẹn rằng, nhà văn đang manh nha những điều khác nữa ngoài những trang viết thành công mà ở tất cả văn xuôi ngắn của Đỗ Bích Thúy đều đã ý thức: trang viết phải không chỉ mang theo không chỉ hơi thở đời sống mà còn mang theo một vùng văn hóa.
Hôm nay, khi Thúy hôm nay và Thúy ngày xưa cũng vẫn Đỗ Bích Thúy, mà hình thức ăn mặc và thể tài ở các trang văn Thúy đang thay đổi. Với việc Văn, truyện ngắn gần đây nhất Chiếc hộp khảm trai, Đỗ Bích Thúy viết về một bà chị bên chồng ở Hà Nội. Truyện ngắn này là bước thay đổi rất khác ngay cả so với vở kịch hôm nào cô viết về gái thị thành. Những chi tiết của nhân vật chứng tỏ sự quan sát rất tỉ mỉ, từ ngôn ngữ tới sắc thái đã lột tả chính xác một người đàn bà Hà Nội rất Hà Nội xa xăm. Đây là sự thay đổi ở Đỗ Bích Thúy, sau 10 năm có dư thâm nhập vào cái vùng văn hóa không hề dễ dàng, bởi vì Hà Nội và văn hóa của nó vốn không phải nơi cô sinh ra lớn lên. Sau hơn 10 năm làm dâu Hà Nội mới nhập cuộc vào dân Thăng Long, để văn chương cô bắt đầu thật sự khoác lên trên Con người văn báo hiệu một bộ cánh mới. Truyện ngắn này tôi đánh giá thành công, không chỉ ở cái nhìn chả còn phơn phớt mà nó vẫn giữ cốt lõi thăm thăm hồn văn Thúy, vẫn nhận ra một cốt cách chầm chậm u buồn, như những âm thanh vọng lên sau bờ rào đá ngày nào, nay là hơi thở của Hà Nội ngàn xưa, yêu người và thương người để viết. Nghĩa là sự lột xác của nhà văn đòi hỏi thực sự đau đớn và cần một thái độ làm việc nghiêm túc để những mười năm làm dâu nhà chồng Hà Nội mới tạo được một vệt chấm trên cái trang văn mới.
Trước khi rời Hà Nội, chúng tôi ngồi cùng nhau hàng tiếng. Căn phòng Đỗ Bích Thúy bây giờ có cửa sổ lớn nhìn ra hàng hoa đại cổ thụ. Trên bàn và cả ở cửa sổ hai bình hoa tươi làm căn phòng lịch sự và trang nhã hơn. Tôi vẫn thấy bức chân dung của Aimatop đen trắng hôm nào ở cái phòng biên tập viên xưa. Bây gờ cô treo trang trọng và quanh đâu đó, các bức kí họa của họa sĩ nổi tiếng như Thành Chương. Đỗ Bích Thúy cười tươi chứ chả im lặng như ngày nào mới quen nhau. Nhà văn đại úy, phó tổng biên tập Tạp Chí VNQĐ xúc ấm, pha trà, tráng các cốc nước thật nóng… đúng như cách pha trà đãi khách của các cô gái Hà Nội. Tôi không thấy Cô Thúy đài các như ai nhìn. Nhà văn Đỗ Bích Thúy ăn mặc nền nã, hợp thời trang với lứa tuổi của người đàn bà hai con, ngồi trên bộ xa lon bàn với tôi về Hà Nội. Một Hà Nội hôm qua và hôm nay. Tôi hy vọng sẽ, có nhiều trang viết nữa về vùng đất mà tôi mang theo yêu thương khi ra đi, còn cô nặng yêu thương khi đã thân quen và ở lại…
Nguyễn Văn Thọ
Nguồn: Văn nghệ.