Chuyên mục TRUYỆN HAY hôm nay, Cầm Kỳ Official xin được giới thiệu truyện ngắn NGƯỜI MẸ LÀO của Hiệu Constant.
Nhà văn- dịch giả Hiệu Constant sinh năm 1971
Tên thật: Lê Thị Hiệu
Quê Thường Tín, Hà Nội.
Hiện sinh sống tại Pari Pháp
Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
Nhà văn, dịch giả Hiệu Constant những năm qua đã trở thành nhịp cầu nối giữa nền văn học Pháp với độc giả Việt Nam, với hơn 50 tác phẩm dịch, trong đó có nhiều tiểu thuyết có giá trị…
Chị đã viết truyện ngắn và tiểu thuyết
Đã xuất bản 5 tiểu thuyết
Nhiều tác phẩm đang trong giai đoạn thai nghén hoặc chờ xuất bản.
Mời quý vị nghe truyên ngắn NGƯỜI MẸ LÀO của nhà văn Hiệu Constant, qua sự thể hiện của nhà văn Võ Thị Xuân Hà.
(Do lượng chữ dài, truyện này sẽ được phát 2 buổi)
Người mẹ Lào
Thân tặng anh Thongvanh Thongdy
Ngồi trong quán cà phê mang tên Madame, cạnh Thư viện quốc gia Lào, một biệt thự trắng từ thời Pháp, có hàng cây sứ bao quanh khiến nhớ đến Thư viện Hà Nội, Chính cố tận hưởng nốt cảnh hoàng hôn cuối ngày. Trời đẹp. Chỉ còn ngày mai là sẽ kết thúc chuyến thăm Viên Chăn, dẫu ngắn ngủi nhưng đã để lại trong Chính nhiều cảm xúc khó diễn tả. Viên Chăn nằm thoai thoải ven sông Mêkông, là một thành phố sát biên giới, bên kia sông là tỉnh NongKhai của Thái Lan. Mùa này nước cạn, chảy êm đềm.
Chính đã thăm khắp thành phố, những chốn thiêng và đánh giá cao một số nơi như Wat Sỉ Muang, Wat Sisaket, Khải Hoàn Môn Patuxay, Thạt Luồng, Phủ Chủ Tịch… và đã nghe và cảm nhận những truyền thuyết, huyền thoại, của thành phố này. Thạt Luồng là tháp phù đồ Phật giáo:“Tháp được xây đựng từ thế kỷ thứ 16, dưới triều vua Xệt-thả-thi-lạt, theo hình một nậm rượu, trên nền phế tích của một ngôi đền Ấn Độ. Bên ngoài được dát vàng. Vào thế kỷ 19, người Thái xâm lược Viên Chăn và đã phá hủy Thạt Luông nhưng sau đó đã được khôi phục nguyên trạng. Kiến trúc Tháp mang đậm phong cách văn hóa bản sắc Lào và đã trở thành Biểu tượng Quốc gia. Theo huyền sử, tháp này lưu giữ xá lợi Đức Phật. Thạt Luồng đã được công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Hàng năm vào trung tuần tháng 11 đều diễn ra lễ hội quốc gia rất trọng thể, gọi là lễ hội That Luang”. Cạnh đó còn có một ngôi chùa mênh mông với nhiều tượng Phật và một tượng Phật nằm rất lớn trong vườn chùa. Khải Hoàn Môn Patuxay trước kia được gọi là Anou Savary, là tượng đài Liệt sĩ vô danh được Pháp khởi xướng và xây dựng từ năm 1957 và đến năm 1968 mới hoàn thành. Nơi đây mang đậm phong cách kiến trúc Pháp-Lào. Phần dưới và bên ngoài mô phỏng Khải Hoàn Môn Paris, nhưng phần trên và phía trong điểm những nét phù điêu trang trí cực kỳ tinh xảo mang đậm văn hóa Lào. Đứng trên tầng cao nhất, ta có thể thấy toàn cảnh Viên Chăn, hệt như khi đứng trên tháp Ep phen ta có thể thấy toàn cảnh Paris. Ở đây cũng có rất nhiều tượng voi với đủ các tư thế. Từ trên cao, Chính đưa mắt khắp Viên Chăn. Không rộng lắm. Những khu vườn bao quanh Patuxay xem ra còn rất mới và được trang bị một hệ thống nhạc nước. Hoặc chùa Sisaket, được coilà chốn linh thiêng cổ nhất Viên Chăn còn giữ được nguyên bản kể từ khi được xây dựng năm 1818, dưới lệnh của vua Chao Anouvong, theo kiến trúc Phật giáo Xiêm. Chính tại đây hàng năm, các quan chức triều đình đến tuyên thệ trung thành với đức vua. Đứng trước Tam bảo, Chính nhắm mắt tượng niệm và cậu như thể nhìn thấy đức Vua và quần thần trong trang phục cung đình oai nghiêm, từng người đến trước vua quỳ gối, dõng dạc thốt ra những điều chứa trong tim mình. Chính nhoẻn cười trước ý tưởng đức vua khéo chọn chốn thiêng! Ai nói thật, ai nói dối chỉ có họ biết, Thần Phật biết! Chùa Sisaket gây ấn tượng với các bức tường hành lang được trang trí hơn 2000 hình ảnh đặc tả cuộc đời của đức Phật trên các chất liệu đồng, gỗ quý, gốm sứ, mạ vàng và bạc. Chính hoan hỉ và thấy mình may mắn khi được chiêm bái chốn thiêng này. Cả một kho tàng tượng Phật, có đến gần bảy ngàn bức lớn nhỏ, đều thuộc dạng quý hiếm và nhiều tượng Phật theo phong cách Lào bằng đất nung, đồng, gỗ, có niên đại từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Đây là công trình duy nhất ở Viên Chăn đã không bị người Xiêm tàn phá năm 1827, có lẽ là do phong cách điển hình của Thái Lan. Các hoạt động tôn giáo vẫn tiếp tục diễn ra tại đây trong suốt thế kỷ 19 dẫu thành phố đã trở nên tàn phế và hoang vắng. Đây cũng là nơi lưu giữ các bản thảo quí hiếm và những bức bích họa tại Tam bảo có niên đại lâu đời nhất Viên Chăn. Và Chính bỗng rùng mình ớn lạnh mặc dù không khí hầm hập của cuối chiều khi thấy một phòng lớn có cửa kính chất thành đống các bức tượng Phật đất nung bị đập vỡ, còn các pho tượng đồng đã bị nóng chảy một phần, nghe nói do trận hỏa hoạn năm 1828…
Theo con mắt kiến trúc sư Quy hoạch hóa đô thị được đào tạo và làm việc tại Pháp, Chính thấy Viên Chăn còn nhiều nơi cần quy hoạch, tái thiết, trùng tu. Thành phố ít nhà cao tầng, nhiều nơi còn mang đậm kiến trúc Pháp. Tên đường phố được ghi bằng tiếng Lào và Pháp. Gọi Viên Chăn là “xứ chùa” không sai. Rất nhiều chùa, cao rộng và được trang trí lộng lẫy. Mái chùa cổ kính thấp thoáng sau những tán cây xum xuê, đa phần màu vàng, mang đậm biểu tượng Phật giáo Tiểu thừa. Bạt ngàn cây hoa sứ, đủ màu sắc. Chính sung sướng lần đầu được chứng kiến các nhà Sư đi khất thực vào buổi sáng tinh mơ. Tà áo khất sỹ màu vàng nhuốm nắng sớm trở nên rực rỡ hơn. Các tì kheo đứng trước cửa nhà dân chừng năm phút mà không thấy mở cửa thì họ tiếp tục đi. Nhưng cũng có gia đình chực sẵn, khi nhà sư tới thì đảnh lễ và cúng dường vào chiếc bình bát của các tì kheo.
Kể cả giờ cao điểm, giao thông tại Viên Chăn khá vắng, trật tự và không có tiếng còi. Anh Văn nói người Lào có câu châm ngôn “muốn nhanh thì phải từ từ”. Chứng kiến cảnh xếp hàng dài kiên nhẫn trước trạm xăng, Chính cảm nhận được sự sống chậm của người Lào. Viên Chăn hôm nay khiến ta nhớ tới Hà Nội những năm 80 của thế kỷ trước! Khi thoát ra khỏi một số đường phố chính, ta lạc ngay vào những con hẻm không tên, nhà không số và phong cảnh nông thôn hiện ra tức thì. Có vẻ như Văn hoá làng xã vẫn hiện hữu nơi đây và dường như người dân Viên Chăn không có nhu cầu thay đổi điều đó. Những lúc không có đèn giao thông, tài xế luôn nhường đường cho Chính, dù họ đến từ bên phải hay bên trái… Chính ghi nhận câu nói của anh Văn “Viên Chăn nhỏ xíu và người Lào hiền hậu và vô cùng thân thiện”.
Gọi một chai bia nhâm nhi, lúc này Chính mới thấy bia Lào quả là thơm và rất ngon. Lúc đầu hơi đắng, chát, ngậm lâu trong miệng thì tự nhiên có hương thơm dâng lên và vị ngọt bắt đầu xuất hiện. Chính bỗng bật cười nhớ lại chai bia Lào hôm trước.
Sau cả buổi sáng cuốc bộ thăm Khải Môn Patuxay, Chợ Sáng, Phủ Chủ tịch…, Chính thấy đói và ra mấy quán ăn ven sông. Thực đơn đa dạng và giá không đắt lắm. Với phương châm “đến Lào phải thưởng thức món Lào” nên Chính đã chọn món Tam Maak Hung, và Phở Lào, kèm một chai Bia Lào, vốn được ca ngợi là bia ngon nhất Đông Nam Á. Chai bia Lào mát lạnh khiến Chính phấn chấn, cái đói trở nên cồn cào hơn. Cậu nghĩ bữa nay sẽ rất ngon miệng! Hơn nữa, cậu chọn món Tam Maak Hung “là món gần như không thể thiếu trong các bữa ăn của người Lào”, gồm đu đủ nạo trộn gia vị nước cốt chanh, mắm tôm, cà pháo, tiêu, ớt… Mới nghe đã chảy nước miếng!
Khi nộm được đem ra, cậu hớn hở gắp ngay một miếng lớn đưa vào miệng, dẫu đã được người phục vụ cảnh báo là “hơi cay”. Vừa nhai được mấy miếng, cậu dừng sựng. Cả khoang hàm ếch như bị đốt vậy. Cay xè, nóng rực. Cậu kín đáo nhổ ra khăn ăn, tu liền một mạch gần hết vại bia.
Dẫu khỏe mạnh, nhưng ăn uống thất thường từ mấy ngày qua, thêm chuyến đi dài và thay đổi múi giờ, sự phấn chấn được khám phá vùng đất mới khiến quên đi mỏi mệt, nhưng lúc này, cái bụng rỗng vừa chứa gần một chai bia khiến Chính chao đảo, mắt hoa lên. Cậu quay sang tô phở Lào với hi vọng làm giảm cơn cồn cào, nhưng… không giống phở Việt Nam! Phở Lào được bê ra với các đồ riêng rẽ và ta tự pha chế. Liếc nhìn người khách cũng gọi phở Lào ở bàn bên cạnh, Chính thấy họ tưới nước dùng vào bát bánh phở, cho gia vị và ăn với mọc và tiết lợn. Ngoài đĩa rau sống đủ loại còn có đĩa đậu đũa tươi luộc tái để cạnh một bát mắm tôm sống. Đã gần chục năm không ăn mắm tôm, chỉ vừa vắt chanh và cho đũa vào khuấy, mùi mắm rất nặng xộc thẳng vào mũi, khiến Chính bật dậy, chạy thẳng vào toa-lét và nôn thốc nôn tháo. Chai bia Lào cũng theo đó mà ra hết. Khi không còn gì để nôn, Chính mệt phờ quay trở lại bàn và gọi tiếp một bát cơm trắng, rau muống luộc và đậu phụ rán trước sự ngạc nhiên khó hiểu của người phục vụ. Đó là bữa cơm đầu tiên của Chính trên xứ sở Chăm Pa, và chưa bao giờ Chính thấy ngon miệng như vậy!
Nếu chuyến du lịch này đã diễn ra suôn sẻ và hết sức thú vị là nhờ anh Văn. Tên dầy đủ của anh là Thongvanh Thongdy, nhưng anh bảo Chính cứ gọi anh bằng Văn cho tiện. Anh làm việc ở bộ Lao động và Phúc lợi xã hội Lào và là người quen của bác Tích, bác ruột của Chính, một cựu sỹ quan Quân Tình nguyện, và bác đã nhờ anh giúp đỡ Chính trong lần đầu đặt chân đến Viên Chăn. Anh Văn nói tiếng Việt rất lưu loát. Anh ra đón Chính ở sân bay, đưa đi thăm một số nơi, chỉ cho cậu những chỗ nên đến… Anh Văn kể đã sang Việt Nam “du học” từ khi 11 tuổi, học từ cấp II, cấp III, rồi sau đó lên đại học Giao thông Vận tải…
Kể cả anh bạn đồng nghiệp người Scottland tên là Williams Hursut nói tận mắt nhìn thấy con quái vật Nessie dài 45 mét ở hồ Ness trong xứ sở của anh ấy thì Chính cũng không ngạc nhiên và ấn tượng như khi nghe anh Văn kể: “Dạo đó anh ở gần Quán Gánh, huyện Thường Tín thuộc tỉnh Hà Sơn Bình. Dạo đó, thi thoảng bọn anh còn đạp xe đến thăm Chùa Đậu, ra bãi Tự Nhiên vái vọng đền Chử Đổng Tử, và còn đến đền Nguyễn Trãi ở Nhị Khê…”, bởi Thường Tín chính là quê nội của Chính, còn anh thì chỉ mủm mỉm cười, như thế nơi đó cũng là một phần của anh nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên… Chính cảm thấy bỗng nhiên mình trở nên thân thiện với anh hơn!
Tối qua, sau khi chia tay anh Văn, Chính ăn nhanh vài lát bánh mì với thịt hun khói mang theo từ Pháp, rồi đi xem Chợ Đêm và đường đi bộ Pha Ngum. Quả là nhiều người Việt bán hàng. Chính nhận ra nhờ những cuộc đàm thoại. Họ nói to. Chính nhận ra trọng âm của từng vùng bắc, trung, nam.
Pha Ngum là con đường đi bộ buổi tối nổi tiếng của Viên Chăn, chỉ hoạt động từ 17h30 đến 22h, nằm giữa công viên Chao Anouvong và triền sông Mekong. Rất nhộn nhịp, rất đông người đi dạo và nhiều nhóm tập thể dục nhịp điệu. Quảng trường vua Chao Anouvong và bức tượng cùng tên sừng sững hiên ngang đầy khí phách, mặt quay ra sông, trong tư thế tay trái cầm kiếm, tay phải chỉ thẳng hướng Thái Lan. Sợi dây lưng chạm hình rắn Naga, tượng trưng cho hoà bình và đạo đức. Đã đọc qua thân thế của đấng quân vương, Chính ngưỡng mộ tinh thần yêu nước, dũng cảm, kiên cường của ngài. Dẫu cuộc đấu tranh của ngài không thắng lợi nhưng tinh thần bất khuất và lòng tự tôn dân tộc của ngài còn sống mãi trong trái tim người Lào và những người yêu tự do độc lập. Thành bại nhiều lần và cuối cùng chấp nhận bị giam cầm và chết trong trại tù của người Thái, đấng quân vương Chao Anouvong khiến Chính nhớ đến nhà chí sỹ yêu nước Việt Nam Nguyễn Thái Học, với câu nói khẳng khái trước quân thù: Không thành công cũng thành nhân!
Khi Chính trở về khách sạn thì Viên Chăn đã vào đêm từ lâu, lung linh huyền ảo khiến sông Mekong trở nên rõ ràng hơn, nhờ những cột đèn đường bật sáng ở đôi bờ. Từ cửa sổ tầng bảy, Chính có thể dõi mắt đi rất xa, đến tận khúc lượn của sông mà Chính cho là đẹp nhất, nó nhắc cậu nhớ đến khúc sông Danupe khi chạy qua thành phố cổ Visegrád của Hung-ga-ry mà cậu có dịp ghé thăm trong một chuyến công tác ở Budapest. Nơi đó có Cung điện mùa hè của Hoàng gia Hung từ thời Trung cổ. Một nơi ghi dấu ấn nhất trong lịch sử nước Hung, cách Busapest chừng 60 kilomet, về phía thượng nguồn sông Danube. Phong cảnh trên đường đến đó rất đẹp, sơn thủy hữu tình. Thành phố cổ với những bức tường kiên cố rêu phong, nhiều chỗ đã bị thời gian bào mòn. Vào năm 1335, tại cung điện này đã diễn ra một sự kiện vô tiền khoáng hậu, đó là vua Hungari đã mời được vua Ba Lan, và vua Bohêm cùng ngồi vào bàn để ký một Hợp tác Liên minh. Cuộc hội ngộ lịch sử của ba đấng quân vương ấy đã làm tiền lệ cho ba nước sau này. Chuyến viếng thăm Hung và thành phố cổ ấy, dẫu ngắn ngủi, nhưng khó quên…
Tối nay, vừa thấy Chính bước vào khách sạn, cậu lễ tân chào và nói ngay:
– Có anh Văn gọi điện và nhắn anh gọi lại ạ.
– Cám ơn cậu. Mình sẽ gọi trên phòng. Chúc buổi tối vui vẻ! – Chính nói trước khi tiến về phía thang máy.
Làn nước mát trong phòng tắm khiến cậu tỉnh hẳn, không còn thấy mệt như lúc ăn phở ban nãy nữa, dẫu đó là phở Việt Nam chính hiệu và cậu đã xì xụp uống hết những thìa nước cuối cùng.
Cậu nhấc máy, bấm số của anh Văn. Anh trả lời ngay.
– Chào em! Hôm nay đi chơi thú vị chứ! Trời đẹp nhưng hơi nắng nhỉ! Em đã đi Vườn Phật chưa?
– Vâng, rất thú vị ạ…, Chính hào hứng đáp – Nhưng em chưa đi được Vườn Phật!
– Lịch sáng mai thế nào? Anh định rủ em đến một nơi khá thú vị, nơi này sẽ đi qua Vườn Phật, chúng ta ghé thăm luôn.
Chính nghĩ nhanh. Những chỗ cần thăm thì cũng đã đi.
– Sáng mai em chỉ định đi mua ít đồ và thăm Vườn Phật thôi.
Anh Văn cười phá lên:
– Cậu nghĩ đang ở Hà Nội hay ở Paris à? Ngày mai chủ nhật, cậu sẽ chẳng tìm thấy cửa hàng nào mở đâu…
– Ô, vâng…
– Anh tính tầm 8h sáng mai sang đón em. Em trả phòng khách sạn. Sau khi thăm thú xong, chúng ta sẽ ra sân bay luôn.
– Chỗ đó ở đâu, xa không anh, và có gì hay?
– Nơi đó cách Viên Chăn chừng 60 km. Có gì thì để mai gặp anh sẽ nói. Thăm vùng nông thôn, thú vị lắm!
Chính nhoẻn cười khi nghe anh Văn nhắc phải đi 60 km để thăm quan nông thôn Lào, Chính mường tượng lại những khu ngoại thành đã đi qua từ lúc đặt chân đến đây.
– Được ạ, miễn sao không trễ chuyến máy bay 20h45 đi Hà Nội của em…
– Em an tâm!
– Dạ. Vậy sáng mai em đợi anh đến đón.
Đã khá muộn, nhưng Chính muốn tải ảnh đã chụp vào máy tính, và đăng vài bức lên Facebook. Chính không ngờ mình đã chụp được nhiều hình ảnh đến thế! Cả thành phố Viên Chăn và vùng phụ cận như đã nằm trọn trong máy tính của Chính. Cậu hài lòng trước những cảnh tượng tuyệt vời đã chụp được. Nhưng những bức chụp ở Chùa Mẹ Si Mương bỗng đặc biệt thu hút Chính. Hầu như bức nào cũng bị mờ, lung linh hệt như chuyển động. Có bức lại như có khói thoảng qua. Nhất là chiếc ghế băng cạnh gốc cây cổ thụ trong vườn. Khi nhìn kỹ chiếc ghế trống được chụp trước khi đến ngồi thì cậu giật bắn mình. Chiếc ghế không hề trống mà có ba người đang ngồi. Ba người đó chỉ lờ mờ nhưng giống hệt hình ảnh mà Chính đã ngỡ mình bị ảo giác. Cho mãi đến nhiều năm sau này, cậu vẫn không thể lý giải nổi chuyện ấy bằng khoa học và lập luận.
Chùa Mẹ Sỉ Mương nằm trong một quần thể um tùm cây cổ thụ. Chùa được xây dựng năm 1566 trên nền xưa của một ngôi đền Hindu thời Đế quốc Khmer. Đây được cho là nơi linh thiêng nhất tại thủ đô. Theo huyền thoại, Wat Si Muang là trụ cột trung tâm thành phố, là linh hồn của Viên Chăn, Mẹ Sỉ Mương được xem như vị thần bảo vệ thành phố và con dân, gắn với truyền thuyết xây dựng thành Viên Chăn. Khi đó vua Lào đi chọn chỗ cắm trụ để xác nhận chủ quyền và phát chiếu chỉ kêu gọi con dân hiến sinh để làm cột mốc linh thiêng cho đất nước. Vào ngày tốt giờ lành, sau khi lập đàn cúng tế trời đất. Vua cho động thổ và đào đất để chôn cột trụ, không ngờ trúng mạch nước ngầm, nước tràn ra không ngừng, và người phụ nữ trẻ tên Sỉ đang mang thai ba tháng đã tình nguyện hiến sinh, trẫm mình lấp mạch nước. Có giai thoại còn kể rằng khi cô ấy vừa rơi xuống, đất đã phủ đầy và nhô lên cột trụ thiêng nên nếu người ta muốn gì, chỉ cần ăn chay và đến đó thành tâm khẩn cầu thì ước nguyện sẽ thành…
Vậy đây là nơi người ta thường đến để cầu phúc! Quả vậy, khi vừa bước vào chùa, Chính cảm thấy như có một luồng khí lạ ập vào mình. Ngoài trời đang nóng mà khi vào bên trong, cậu lạnh rởn gai gà. Trần nhà rất cao, sảnh rất rộng, cảnh trí lộng lẫy, khu Tam bảo trang nghiêm chỉ có mấy pho tượng Phật rất lớn, khác hẳn với những ngôi chùa trầm ngâm cổ kính ở miền bắc Việt Nam. Chính nhớ lại những cảm giác kỳ lạ khi tham quan ở đây, nghe các nhà sư tụng kinh, được một nhà sư già ban phước và buộc vào cổ tay mình chiếc vòng được tết bằng những sợi chỉ đa sắc. Đây là lần đầu tiên trong đời cậu để cho người ta làm mà chẳng hiểu gì. Cả người cậu như có một luồng điện chạy qua khi nhà sư chạm vào cổ tay. Cậu chưa bao giờ ngờ rằng chính sự yên lặng vì ngôn ngữ bất đồng mà tạo nên được cảm giác hoan hỉ này. Hoặc khi âm thanh của ngôn ngữ không còn quan trọng, thì ta có thể trực cảm một cách rõ rệt hơn? Có lẽ Chính sẽ không bao giờ quên ánh mắt nhà sư già nhìn cậu và âm thanh những câu thần chú ấy. Cả ánh mắt và âm thanh phát ra từ miệng nhà sư già đều tràn ngập sự từ bi khiến cậu cảm thấy bình an. Do không muốn để mất cảm giác ấy, nên Chính đã ra khỏi chùa và chọn chiếc ghế băng còn trống dưới gốc cây cổ thụ xòe tán mênh mông, sau khi chụp những bức ảnh này. Chính nhớ khi vừa ngồi xuống, mắt vẫn dõi theo những vết nắng đung đưa dưới nền sân. Chính mơ hồ nhìn thấy ba người, ăn mặc khác lạ so với xung quanh. Một người phụ nữ còn trẻ, ăn vận theo lối người Lào cổ. Người phụ nữ thứ hai già hơn, ăn vận theo lối nông dân Lào, người thứ ba thật kỳ lạ, đó là một anh bộ đội Việt Nam. Chính nhận ra vì trên đầu anh đội mũ gắn sao, và bộ quân phục bạc màu còn lấm tấm bùn. Hai người sau có vẻ cung kính trước người phụ nữ trẻ. Cả ba đều vui, nhìn Chính tủm tỉm mà không nói. Chính cảm tưởng mắt mình bị hút chặt vào ba con người kỳ lạ ấy Một góc tâm trí Chính mách bảo rằng đó chỉ là ảo giác, Chính cố lắc đầu, dụi mắt, nhưng hình ảnh ấy vẫn không biến đi. Nắng vàng tưới ướt rượt nóc chùa nhắc Chính hoàng hôn đang dần buông trên thành phố…
Cơn buồn ngủ bỗng ập đến, Chính tắt máy đi nằm mà không nghĩ đến việc đăng ảnh lên Facebook nữa.
Tầm 4h sáng, tỉnh giấc vì lạnh, Chính muốn kéo chăn đắp mà cả người cứng đờ, trong khi đầu óc rất tỉnh táo, mắt vẫn mở. Cậu thấy anh bộ đội mặc quân phục bạc màu đứng phía cuối giường. Tay ôm mũ gắn sao, miệng nhoẻn cười nhìn Chính, dáng vẻ anh rất hân hoan. Chính không thấy sợ, chỉ muốn mở miệng hoặc ngồi dậy thò tay chạm vào anh, nhưng như có một sức nặng ghìm chặt cơ thể Chính xuống giường! Trong chốc lát, người lính di chuyển về phía cửa sổ rồi tan loãng sau tấm rèm.
Chuyện chỉ diễn ra trong khoảng 30 giây. Sau đó, Chính cảm thấy mình trở nên nhẹ nhõm, lâng lâng.
Khoan khoái sau một giấc ngủ sâu, Chính đã lấy lại sức và thấy đói cồn cào. Cắm bình siêu tốc, pha trà và ăn sáng với bánh khô đem theo từ Paris. Đã 5h30. Qua cửa sổ, đường phố Viên Chăn vẫn vắng tanh, thi thoảng có xe hơi bật đèn pha phóng vụt qua. Cảm giác được chạy bộ ven sông Mekong vào buổi sớm lành lạnh khiến Chính thích thú. Thay quần áo, cắm tai nghe nhạc và đi xuống. Cậu lễ tân nằm nghỉ trên sô pha tại tiền sảnh vui vẻ mở cửa. Khu Chợ Đêm giờ đã quang đãng, những gian hàng đã dọn đi, chỉ còn vương vãi giấy gói hàng và túi ni lông bay lất phất. Băng qua công viên, bước qua thanh chắn hành lang, Chính dấn vào đường Pha Ngum và chạy về hướng quảng trường Vua Chao Anouvong. Tai nghe nhạc, chân sải những bước dài, bỗng Chính cảm thấy như có ai níu lại và kéo về phía sau, khiến cậu đứng sựng và lùi lại vài bước. Chưa kịp hoàn hồn thì cách Chính chừng nửa mét, một chiếc xe hơi ngược chiều bị mất lái, bẻ ngoặt và đâm thẳng vào thanh chắn bên phải, ngay trước mặt Chính. Xe đâm mạnh đến nỗi thanh chắn đứt đôi và chiếc xe cứ lao thẳng xuống dưới sườn dốc thoai thoải, và chỉ dừng lại khi đâm vào một ụ đất. Hoàn hồn, Chính chạy xuống. Kỳ lạ, xe đâm mạnh và lao xuống rệ đường sâu như thế nhưng khi Chính đến nơi, tài xế là một người đàn ông trung niên đã mở cửa xe và đang gắng toài ra. Mặt ông tái mét nhưng không hề bị thương.
Ông hỏi Chính bằng một tràng tiếng Lào. Không hiểu nhưng Chính đáp lại bằng cử chỉ rằng mình không sao. Người đàn ông bỗng quỵ xuống, Chính nhanh chân đến đỡ ngang lưng và đặt ông ngồi xuống mô đất. Sau vài phút, ông hoàn hồn và móc điện thoại gọi điện. Chừng 30 phút thì có mấy người dân thường đi xe máy đến. Chính tự hỏi sao không gọi cảnh sát mà lại gọi người nhà? Thấy họ trò chuyện liến thoắng bằng tiếng Lào, đi vòng quanh chiếc xe xem xét, chỉ chỗ này, chỏ chỗ kia rồi lại bình luận mà quên cả sự có mặt của Chính. Thấy ông lái xe có vẻ đã trở lại bình thường, Chính cáo từ ra về.
Chính không chạy nữa mà lững thững đi bộ về. Cậu men theo lối đi trong công viên. Những gì vừa xảy ra có thể nói là kỳ diệu, cách giải quyết cũng hết sức đơn giản! “Ở Pháp thì sẽ rắc rối hơn nhiều!” – Chính nghĩ thầm.
Đồng hồ chỉ hơn 7h, Chính vội vàng tắm rửa, cạo râu, thay quần áo, xếp va li, không quên chiếc máy ảnh đã sạc đầy pin, và xách tất cả xuống phòng ăn. Có rất nhiều đồ ăn sáng và khách tự chọn. Các nhân viên nhiệt tình niềm nở. Màn hình lớn gắn trên tường đang phát thời sự sáng của Việt Nam. Mắt Chính bỗng mở to, tai căng ra khi phát thanh viên thông báo các sự kiện đang diễn ra ở xã Đồng Tâm huyện Mỹ Đức. Những hình ảnh trượt lượt… bắn súng, đốt người, chết chóc… Thê thảm quá…
Ăn nhanh và xuống quầy lễ tân, Chính thanh toán xong thì xe anh Văn cũng rà tới. Chính chào cậu lễ tân và không quên thả tờ 100.000 kip vào cái bình thủy tinh khá to để ở góc bàn bên trái.
Anh Văn giúp Chính xếp va li vào cốp xe và Boualam nổ máy.
Vừa vào xe, Chính phô liền:
– Đài truyền hình Việt Nam vừa đưa tin về Đồng Tâm ở huyện Mỹ Đức! Anh nhớ huyện Mỹ Đức chứ?
Anh Văn gật đầu:
– Anh nhớ mà! Gần chùa Hương đúng không? Có chuyện gì ở đó vậy?
Không muốn dài dòng, Chính nói sơ qua về những gì mình vừa xem.
Anh Văn trầm ngâm hồi lâu rồi thốt lên: “Thật đáng tiếc!”
Đúng vậy! Chính thầm thì…
Anh Văn bỗng nói: “Đất nước Lào mang ơn Việt Nam rất nhiều!”
Rồi anh bắt đầu kể cho Chính nghe lịch sử mối quan hệ Việt-Lào, thấm đẫm nghĩa tình.
– Bắt đầu từ năm 1949, các lực lượng quân sự Việt Nam đã sang công tác và chiến đấu giúp Lào và mang tên Quân tình nguyện. Qua các cuộc chiến tranh, mối quan hệ ấy càng được thiết chặt hơn. Từ đó, hình ảnh người chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam đã trở thành biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần quốc tế trong sáng, giúp Lào vững bước trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và thời kỳ đầu xây dựng, phát triển đất nước… Ngoài ra Việt Nam còn giúp Lào đào tạo Cán bộ Ngành, bằng cách nhận các học sinh, sinh viên sang du học, anh được nằm trong số đó…
Anh Văn còn nói nhiều điều mà Chính mù tịt. Về các chiến dịch Thượng Lào, Hạ Lào, Nam Lào… những thắng lợi và cả tổn thất… Nhưng thật kỳ lạ, Chính nghe mà nhập tâm ngay, cứ như thể anh chỉ nhắc cho Chính nhớ lại. Chính hình dung ra từng thời kỳ với những cảnh tượng sôi động, cam go ác liệt trong lửa đạn chiến tranh. Chuyện anh kể đã làm Chính vơi đi nỗi nghẹn ngào khi xem vụ Đồng Tâm! Rồi anh chuyển đề tài:
– Hôm nay anh muốn đưa em đi thăm một ngôi mộ. Kể cũng hơi bất thường. Ngôi mộ đã được giấu kín từ hơn ba chục năm nay. Là nhờ một cô giáo tên là Ainoy Phouvong sống ở Viên Chăn đã phát hiện ra. Cô Ainoy gọi bà cụ già đó bằng Dì. Cụ tên là Dachai. Cách đây mấy tháng, bà cụ ốm nặng nên cô về thăm.
Chính đáp “vâng”, trong đầu nghĩ vẩn vơ…
Vườn Phật, hay còn gọi là Buddha Park nằm ở huyện Xieng Khuan. Để đến đó, xe chạy theo sườn sông Mekong. Dân chúng hai bên đường thưa thớt, nhà cửa tiêu điều, còn rất nghèo. Những thửa ruộng trồng hoa, lúa và cả những khu bỏ hoang xen kẽ nhau. Không khí hệt một miền quê vùng sâu Việt Nam. Thấp thoảng các Tịnh xá đang xây cất, cây trong vườn còn nhỏ và thưa thớt, thấy rõ những bức tượng Phật lộ thiên.
Chẳng mấy chốc Vườn Phật đã ở trước mặt. Chính mê li trước một thảm thực vật và cây cối trong vườn có thể nói là kỳ hoa dị thảo và một không gian mênh mông với 200 pho tượng Phật và các nhân vật trong truyền thuyết Hindu được đúc bằng bê tông với các hình dáng tư thế khác nhau. Nổi bật hơn cả là bức tượng Phật nằm dài 40m, tượng thần Indra cưỡi voi 3 đầu và một tòa công trình mang hình quả bí ngô khổng lồ, lối vào là cái mõm quỷ há rộng. Nơi đây được nghệ sỹ Bunleua Sulilat lập dự án xây dựng năm 1958, nhưng anh Văn nói ông đã vượt biên sang Thái Lan năm 1978 và xây dựng công viên Sala Keoku với chủ đề tương tự.
Vào khám phá “ruột quả bí ngô”. Chính thấy có ba tầng với những hành lang và cầu thang rất hẹp. Ba tầng được tượng trưng cho tam giới: Địa ngục, Trần gian và Thiên đường. Có nhiều tượng Phật nhỏ. Trên cùng là những hình ảnh tượng trưng cho cảnh giới đã siêu thoát, những nữ thần tuyệt đẹp, những tiên đồng và tiên ông với vẻ mặt viên mãn, hoan hỉ chốn bồng lai. Tầng giữa là Trần gian, với hình ảnh đời sống phàm trần được đặc tả qua những bức tượng múa dân gian từ hoàng gia cung đình đến dân cày. Tầng cuối cùng là Địa ngục, những bức tượng hãi hùng lột tả những nét ác độc của hung thần và những linh hồn bị đầy đọa, tra tấn cực hình. Có nhiều bức tượng còn đang dang dở hay đã bị thời gian bào mòn… Nhìn cảnh tượng ấy, Chính cảm thấy ngột ngạt và khó thở.
Chính vừa chui ra thì anh Văn nhắc:
– Phải đi thôi, đoạn đường còn khá xa!
Họ ra xe.
Câu chuyện trong suốt chặng đường đi thăm ngôi mộ như phần nào trầm xuống. Cả anh Văn và Chính đều như đang theo đuổi những suy nghĩ của mình. Trời sầm lại và gió bắt đầu thổi. Cửa kính xe để mở nên hơi lạnh thốc vào và Chính cảm thấy vảng vất, nhưng vẫn ngắm phong cảnh. Cậu nhận thấy một số tàn tích thành quách với những bức tường đá đổ nát, những cây già cong queo sà trĩu xuống đất như thể muốn nằm nghỉ và trở về với trạng thái hạt mầm ban đầu. Cỏ bên đường mọc cao, chuệnh choạng lượn theo những cơn gió. Cậu chăm chú quan sát những sắc màu đã phai lạt theo năm tháng và thừa nhận rằng chốn này mang một vẻ quyến rũ nào đó.
Anh Văn lại lên tiếng:
– Chắc cụ Dachai nghĩ mình sắp chết nên mới thổ lộ, nhưng lúc đầu cô Ainoy nghĩ cụ già rồi nên lẩn thẩn, chỉ nghe mà không tin. Nhưng khi cụ mất, cô dọn nhà nên thấy một cái hộp. Mình sắp đến nơi rồi. Nằm phía bên phải đó.
Theo hướng tay anh Văn, Chính nhận thấy xa xa có một ngôi làng nhỏ. Boualam cho xe rẽ xuống, băng qua đoạn đường dài khấp khểnh đầy “ổ voi” và đỗ lại.
– Đây là cổng làng – Anh Văn nói và mở cửa xe bước xuống.
Đây không thể gọi là làng! – Chính nghĩ bụng – một xóm tiểu phu thì đúng hơn! Chỉ lèo tèo vài nóc nhà dưới chân đồi. Cỏ mọc um tùm khắp nơi, như thể đã bị bỏ hoang từ lâu. Không một bóng người, không một tiếng chó sủa, không một tiếng gà kêu! Chính bỗng rùng mình, cảm giác ớn lạnh ngấm nơi sống lưng.
Chính rảo bước sau anh Văn. Chừng vài trăm bước, họ đến một ngôi nhà hẻo lánh nằm tách biệt sau làng. Đường vào nhà đã được phạt quang, những mầm cỏ non đang nhú lên. Ngôi nhà lá vô cùng đơn sơ, nền đất, các vách gỗ thủng lỗ chỗ, chiếc bàn gỗ và giường tre xiêu vẹo. Một vách ngăn với căn buồng, có cánh cửa khép hờ. Sát tường phía gian trái có một cái chạn bằng tre, trong đặt vài cái bát cũ kỹ, sứt mẻ, những đôi đũa đã mòn, một cái ga-men nhôm và mấy cái thìa… “Hình ảnh hệt như trong một nhà bảo tàng” – Chính nghĩ. Bên kia khoảng sân nhỏ là gian bếp bé xíu và siêu vẹo hơn nữa. Trên mặt bàn kê sát vách, có một tấm ảnh bà cụ già. “Chắc là cụ Dachai!” – Chính bỗng ngờ ngợ, hình như đã thấy bà cụ ở đâu đó… Anh Văn cúi xuống cột nhà, moi ra một chiếc chìa khóa và mở cánh tủ nhỏ gắn phía dưới chiếc bàn sát tường và lấy ra một cái hộp. Anh lần tìm trên thanh ngang trong tủ để lấy ra một chìa khóa. Anh vẫy Chính lại gần:
– Đây là tất cả món đồ bà cụ để lại, cô Ainoy Phouvong đã không dám đem về nhà mình – Anh nói và nhặt những đồ trong hộp đặt lên mặt bàn. Trước tiên là một cặp quân hàm Thiếu úy, kế đến là một chiếc ví, cây bút máy, một cái lọ bé xíu chứa tờ giấy gấp nhỏ.
Chính nhấc chiếc ví lên xem. Bên trong có bức ảnh đen trắng, nước ảnh đẹp, các đường nét rõ ràng. Đó là một người lính mặc quân phục gắn lon trung sĩ. Chính lật mặt sau thấy ghi Đồng Tâm 22/06/1970. Bỗng Chính giật mình. Khuôn mặt này quen quen, Chính tự nhủ. Rồi bất chợt mắt Chính trượt khỏi bức ảnh và như bị hút về phía góc nhà. Chính như đang nhìn thấy một bà mẹ Lào, bà cụ Dachai hồi còn trẻ, kiên nhẫn nhỏ từng giọt cháo hay thuốc vào miệng một anh bộ đội. Miệng anh mím chặt, đầu quấn đầy băng, bắp chân cũng quấn băng, đôi bàn chân tươm tướp những vết máu đã khô đen. Anh thở khó nhọc, mắt nhắm nghiền. Bà mẹ Lào để bát xuống, khẽ tách nhẹ cặp môi anh để đổ thìa thuốc. Anh nuốt một cách khó nhọc, khiến cổ hằn rõ những đường ven…
Rồi như một con robot, Chính rời khỏi bàn, đi ra sau mà không chú ý đến vẻ ngạc nhiên của anh Văn. Miệng cậu thì thầm khi phát hiện một chiếc cọc dài được chôn sát tường, cách gốc cây một khoảng đủ để mắc võng. Cậu tiến lại gần nhưng không dám sờ vào những sợi dây dù vẫn được vắt trên đó, tất cả đều bị mốc rêu và mạng nhện giăng đầy. Cậu hoàn toàn bị đồ vật này thu hút. Sự hiện diện của nó hình như khẳng định và nhấn mạnh sự có mặt của người lính đã từng ở đây. Chính hồi tưởng khuôn mặt thanh tú trong bức ảnh đen trắng và đem đặt khuôn mặt và hình hài ấy vào chiếc võng này. Chính hình dung giọng nói khàn khàn yếu ớt và nụ cười gắng gượng của anh. Sự tồn tại mong manh ấy được tỏa ánh hào quang nhờ thiện tâm của bà mẹ Lào. Chính rõi mắt ra xa hơn, như thể cậu ước có được Thiên nhãn thông để soi thấu ngàn trùng, xem có còn người lính nào đang ở chỗ này, chỗ kia. Những anh X., anh A. đang đứng dõi mắt ngóng về phương xa như muốn chọc thủng cả những khu rừng bạt ngàn, chọc thủng dãy Trường Sơn để tìm về một vùng quê có bà mẹ già đang ngóng con và những đứa em ngóng anh, có những đọn khói bốc lên cứ lẩn quẩn vấn vương mãi quanh mái rạ vào những buổi hoàng hôn…
Như bị thôi miên, Chính bước đến bên một cây to khác mà cậu không biết tên, cạnh đó có mấy khúc gỗ, như thể vốn được dùng làm ghế và ngồi xuống. Không gian âm u hơn, mây như sà xuống đậu trên đỉnh núi gần đó, trời đang ngả về chiều và rất nhiều gió. Xóm nhỏ tiêu điều mang dáng dấp khắc khổ tiều tụy của khu chợ chiều miền sơn cước nhưng lại đẹp mê ly. Điều này khiến Chính nhớ lại một tác phẩm đã đọc từ lâu. Cậu cũng nhớ đã đọc đâu đó viết rằng gió đôi khi khiến người ta phát điên. Người ta so sánh nó với những giọng nói vẳng lên từ nấm mồ và ý niệm này tự lan tỏa cho đến lúc biến hẳn thành một sự thật đến nỗi khiến những kẻ yếu bóng vía chạy khắp vùng hoang vắng nhằm củng cố tinh thần cho những hồn ma lẩn quất. “Liệu có phải đây là sự thật của những gì mà rạng sáng nay mình đã thấy trong phòng và cảm nhận được kể từ hôm qua không?”, Chính tự hỏi.
Chính lại nghĩ đến bức ảnh trong chiếc ví. Cậu có cảm giác nhiều thứ đang đảo ngược thời gian thực tế của chúng, rằng chúng đang quay ngược trên chính mình và bức ảnh chụp xưa kia, trong hai màu đen trắng đặt định rõ những đường nét, đã lệnh cho không gian nơi đây sẫm dần để quay trở lại màu đen trắng như thuở hoang sơ ban đầu. Gió thổi mạnh và có tiếng mưa rơi đâu đó. Vài cây to trong khu đứng trơ trụi, cành cây mới khẳng khiu làm sao, giống như những cánh tay chới với của một cơ thể đau đớn kêu cứu, cứ muốn vươn dài đến sự yêu thương của loài người, lên phía trời cao. Cậu chợt rùng mình trước cảnh tượng ấy. Cảnh cái chết cận kề khiến cậu không thoải mái. Tai cậu hình như văng vẳng những tiếng đạn cối nổ ùng oàng, những luồng đạn liên thanh, những tia máu phun trào và khói bủa ra, lan tỏa khắp vùng. Những xác người được chôn tạm trong lòng đất và biến thành bộ xương trắng … Chính lắc mạnh đầu, cứ như thể đó là một cảnh trí tạo dựng cho một bộ phim chiến tranh. Hoặc trong cơn ác mộng của người cựu binh già vậy. Cậu bỗng thấy khó ở. Lo âu vì không gian quá im ắng, cậu nhỏm dậy ra khỏi gốc cây um tùm cỏ dại, nhẹ bước trên lối mòn lờ mờ dẫn ra cánh đồng. Ở đó, cậu ngồi bệt xuống đất, nhìn ngắm bầu trời bao la tối sầm và những đám mây lao vun vút. Cậu như nghe trong gió vẳng tới một giọng khàn khàn, ngàn ngạt, thốt ra những lời khó hiểu. Thoắt đến thoắt đi. Xâu chuỗi những câu nói đứt quảng, Chính luận ra vài tiếng, hình như là: “ở lại… đại ngàn… mẹ Lào…”. Những câu đôi lúc khỏe khoắn mãnh liệt, lúc lại ủ ê sầu than.
Tiếng bước chân của anh Văn và người lái xe kéo Chính về với đời thường.
– Ô, em ngồi ở đây hả? – Anh Văn hỏi để chỉ mà hỏi – Anh đã nói mà, nông thôn Lào rất đẹp, bình an, khiến tâm hồn an tịnh.
Chính nhìn sững anh. “Khiến cho tâm hồn an tịnh ư? Anh Văn làm sao biết điều gì đang quay cuồng trong nội tâm mình!”
– Máy ảnh của cậu đây, làm vài pô để kỷ niệm nhé! – Anh cười nói – Tạo dáng nhé, để anh bấm nào. Lúc này không phải là lý tưởng để chụp ảnh… – anh lẩm bẩm, rồi dàn cảnh cho Chính để chụp được góc ảnh đẹp nhất.
Bỗng Chính tiến về phía cây lớn và nhất định muốn anh chụp cho một bức. Anh Văn hơi ngạc nhiên vì thấy chỗ đó chẳng có gì đẹp, cạnh cái bếp xiêu vẹo, cây to khẳng khiu, cỏ lác mọc đầy và những khúc gỗ lổn nhổn.
– Anh nhớ lấy toàn bộ khu nhé! – Chính huơ tay chỉ một khoảnh rộng.
Anh Văn đưa máy ảnh cho Chính.
Chính bắt đầu chụp. Cậu muốn ghi lại tất cả hình ảnh nơi đây. Cậu không ngẩng nhìn trời nữa, không hề để ý đến những đám mây đen mọng chỉ chực đợi ai đó đụng khẽ, hoặc một tia chớp lóe lên là trút cả khối nước khổng lồ xuống trần gian. Mắt Chính dán vào lỗ ngắm của chiếc Nikon, và chợt thấy lời anh Văn có khi không sai! Nơi này, khác xa với Thủ Đô Ánh Sáng nhưng mang một vẻ quyến rũ kỳ lạ, một sự bình an vĩnh hằng, một niềm an tịnh bất biến, một nơi cất giấu trong mình bao điều bí ẩn diệu kỳ…
Một ngọn gió mạnh dai dẳng cứ đeo bám Chính. Phong cảnh trở nên lờ mờ do cỏ cây di động quá nhanh. Trước đây, đã có lúc Chính mơ được đến một hòn đảo chìm trong sương mù, ở đó cậu sẽ được bước thoải mái trong cỏ ướt cho đến tận khi cả người đẫm mùi diệp lục, chạm vào những ghềnh đá phủ đầy cây địa y nhớp nháp và nghe thấy tiếng gầm rào văng vẳng của một con vật vô hình, át cả tiếng sóng cuộn. Một cánh rừng mênh mông trải dài trước mắt rồi lại bất ngờ biến mất tựa như một ảo ảnh. Và đây, lúc này trong cảnh trí đầy cây trơ trụi và cỏ dại, một mình cậu chợt đứng bất động, hệt như nàng Tô Thị đã biến thành đá, trước một người đàn ông mặc quân phục bạc màu, lấm tấm bùn và ngôi sao trên mũ đỏ rực màu máu. Anh nhìn cậu đăm đăm. Mảnh áo bị rách trên vai anh bay lật phật theo những cơn gió thốc tới, hệt như một lá cờ trước mũi con tàu ma. Rồi anh bỗng mỉm cười trước ống máy của Chính, vẫy tay chào rồi quay lưng đi về phía cây lớn, rồi lại tan loãng vào đất trời bao la, hệt như một ảo ảnh!
Chính quay vào nhà, anh Văn và Boualam đang ngồi đợi, những di vật của người chiến binh xưa vẫn ở trên bàn.
– Em chụp ảnh những thứ này chứ? Em có thể sẽ nói với bác Tích…
Chính gật đầu và bắt đầu chăm chú ghi cận cảnh từng thứ, trong lúc anh Văn vẫn thong thả nói:
– Theo cô Ainoy nhớ lại lời kể của cụ Dachai thì nhân một buổi đi thăm đồng, cụ đã gặp anh lính này, bất tỉnh nằm phục dưới ruộng. Chắc anh đã lết đi trong nhiều ngày, tay chân tươm bướp, máu me bê bết. Lúc mơ lúc tỉnh, anh ấy nói là thuộc Quân tình nguyện Việt Nam. Cụ đã đem về nhà chăm sóc, tưởng đã đỡ nhưng vết thương lại bị nhiễm trùng, và rút cục anh ấy đã chết vào rạng sáng ngày 12 tháng 12 năm 1972…
Đang chăm chú căn hình, Chính bỗng dừng phắt lại:
– Anh vừa nói gì? Anh ấy chết khi nào?
– Rạng sáng ngày 12 tháng 12 năm 1972 – anh Văn nhắc lại.
Chính nhìn anh trừng trừng, anh Văn đâu biết rằng đó chính là ngày sinh tháng đẻ của cậu, chỉ cách đúng 12 năm. Cậu sinh năm 1984.
Rồi họ xếp mọi thứ vào hộp, anh Văn khóa lại, cất chìa khóa lên thanh ngang, đặt hộp vào tủ, khóa tủ rồi giấu chìa khóa xuống dưới cột nhà.
Lại là anh Văn lên tiếng:
– Về chỗ ngôi mộ, bà cụ chỉ nói là ở vườn sau, nhưng bọn anh đã đến xem, tất cả đều bằng phẳng, sẽ cần thời gian để tìm kiếm.
– Em biết là ở chỗ nào – Chính khiến anh Văn và cả chính cậu cũng ngạc nhiên khi nghe thấy mình thốt ra câu đó…
– Em nói gì? – Anh Văn hỏi.
– Em không biết, em chỉ cảm nhận thôi. Có lẽ là gần gốc cây lớn ngoài kia, chỗ anh đã chụp ảnh cho em đó – Chính nói và chỉ gốc cây mà ban nãy cậu đã đến ngồi, nơi đặt những khúc gỗ để thay cho những chiếc ghế ngồi.
Anh Văn chỉ gật gù mà không nói gì.
Lúc ra xe, Chính ngoái đầu nhìn căn nhà xiêu vẹo ngoài bìa làng và thoáng thấy anh bộ đội đứng chon von trên nóc nhà mỉm cười vẫy tạm biệt. Chính quay hẳn người lại, chắp tay và cúi chào!
Boualam thở phào khi băng hết đoạn đường gần 2 km đầy vũng nước sâu để lên đến Quốc lộ. “Lạ thật, trong làng có mưa đâu nhỉ!”, anh Văn thốt lên.
Trời sáng lên và mặt trời lại hiện ra. Ráng chiều hoàng hôn sau mưa thật tuyệt đẹp! Chính bảo Boualam dừng xe. Cậu muốn hít căng lồng ngực luồng khí thanh khiết của núi rừng thiên nhiên, cố gắng quên câu chuyện huyễn hoặc về hình ảnh người lính và những giọng nói âm u cứ dai dẳng bám theo. Thảm thực vật trải dài trước mắt. Xa xa đồi núi nhấp nhô nổi bật trong cảnh hoàng hôn. Ánh nắng cuối ngày xuyên qua những đám mây, tạo nên những vết ngang dọc mờ ảo tối sáng trên bầu trời, hệt như một bức tranh Trừu tượng. Phía tây, màu vàng cam hoàng hôn khiến những vầng mây như thẫm lại. Màu vàng cam rực rỡ bao phủ các mái nhà trong ngôi làng heo hút xa xa kia. Tiếng chuông chùa đâu đó văng vẳng vọng tới cùng những đàn chim đang dịu dàng sải dài cặp cánh vô ưu.
Chính thấy lòng mình tràn ngập niềm xao xuyến!
Anh Văn xem đồng hồ rồi nhắc sắp đến giờ ra sân bay.
Như để làm hài lòng Chính, Boualam mở băng cát-xét với các bài hát ca ngợi mối tình Lào – Việt.
Anh Văn nói:
– Là các ca sỹ Lào sáng tác và hát đấy…
Chính tròn mắt và yên lặng lắng nghe, người lắc lư theo điệu nhạc. Lời ca “trong như ngọc, nhiều như nước sông Cửu Long, cao như dãy núi Trường Sơn, sáng như trăng rằm và thơm như hoa chăm-pa…” khiến Chính cảm nhận thêm sự sâu sắc về mối tình thuỷ chung mà người Lào dành cho Việt Nam.
Trời đã quang mây, thành phố đã lên đèn. Ánh đèn làm cho nền trời trở nên vời vợi với những ngôi sao sớm nhấp nháy, ánh xanh hư ảo. Dưới vòm lá, ánh đèn đường dường như ấm áp và nồng hậu hơn. Lá rung rinh, xao động, ánh đèn và gió đang pha màu yêu thương, nhuộm không gian thành một màu vĩnh cửu…
Lúc ngồi uống cà phê trước giờ lên máy bay, Chính trầm ngâm nói:
– Anh Văn ạ, không biết em có nên kể chuyện này cho anh nghe không?
– Nếu thực sự tin tưởng anh thì hãy nói! – Anh cười độ lượng và nhìn thẳng vào mắt Chính – Chuyện ở ngôi nhà bà cụ Dachai à?
– Vâng, và những chuyện khác mà em cảm thấy từ lúc đến Viên Chăn, khi thăm chùa Mẹ Sỉ Mương…
Rồi vừa khuấy hờ ly cà phê, Chính vừa kể đều đều những gì xảy đến với mình trong mấy ngày qua. Những cảm giác khi bước vào chùa, lúc nghe những câu tụng kinh của các nhà sư và được vị sư già buộc chiếc vòng chỉ vào cổ tay, những bức ảnh chụp ngoài vườn chùa, hình ảnh nhìn thấy buổi sáng trong phòng, vụ tai nạn hi hữu kỳ diệu và cả lúc đến thăm ngôi nhà cụ Dachai, cuối cùng cậu kết luận:
– Chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi khám phá Viên Chăn, em nhận thấy có một sự thay đổi trong nội tâm, thấy trong mình như hé nở một thứ tình cảm khác lạ khiến em cảm thấy bình an. Nó giống như cảm giác khi biết mình được che chở, anh hiểu không? Đó là một trạng thái mà ngôn ngữ không diễn tả được. Một thứ cảm giác không thể giải thích bằng ngũ quan…
– Anh chúc mừng em! – Anh Văn với tay qua bàn để vỗ nhẹ lên tay Chính – Anh không ngạc nhiên khi nghe chuyện của em – anh nói với sự từng trải vững tin – Em quả là may mắn! Có những điều mà khoa học không thể giải thích được. Điều em đã trải qua từ mấy ngày nay, chỉ xảy ra khi những trái tim thiện và tâm hồn tinh khiết chạm vào nhau, nói cách khác là cùng theo một nhịp đập từ trường cao thượng. Theo anh, em đã chiêm nghiệm được sức mạnh của sự Tỉnh Thức.
Rồi anh nói tiếp sau một lúc suy nghĩ:
– Nhiều người nghe nói đến chữ “tu” thì đã sợ, bởi họ nghĩ ngay đến cảnh khổ hạnh, ép xác… Nhưng với những kẻ phàm trần như chúng ta, tu là tự sửa mình. Tu là để mất dần bản ngã, phân biệt được đúng sai. Tu tức là dành thời gian nhìn lại mình, phân tích nội tâm xem thực chất mình là ai, xuất hiện trên thế gian để làm gì, bởi mỗi người hiện diện tại đây đều đem theo mình một sứ mệnh và nhiệm vụ của mỗi chúng ta là thực hiện sứ mệnh ấy. Tu là để giữ tâm hồn được tĩnh lặng, bất biến trước mọi sự thay đổi của thế giới bên ngoài… Sự tĩnh lặng của tâm hồn không đồng nghĩa với sự bất động của tâm thức, càng không phải cố ghìm nó đứng yên mà là một trạng thái thả lỏng, để tâm thức thực sự tự do.
Dừng một lát, anh nói tiếp:
– Anh đã đọc ở đâu đó nói rằng sự tĩnh lặng đơn độc đôi khi khiến người ta phát điên. Những tù nhân tại Mỹ đôi khi phát khùng và trở nên hung hăng khi bị giam biệt lập quá lâu. Nhưng theo Phật giáo thì khác hẳn, sự tĩnh lặng và cô độc khiến các đạo sỹ đắc đạo…
Chính bỗng chợt nhớ khi xưa theo mẹ hoặc bà nội đi chùa, thấy bức tượng đáng sợ của một vị hung thần, được gọi là Ông Ác, tượng trưng cho sự hủy hoại, tàn phá, Chính thường không dám nhìn thẳng vào mặt vị này, nếu không tối đó sẽ mất ngủ, nhưng bà nội đã giải thích rằng vị thần này chỉ ghê gớm đối với những người không tốt và bất hiếu. Ngoài ra vị thần này còn giúp đỡ những con người bị hàm oan, bị ức hiếp… Bà nội thường dạy Chính những Luật vũ trụ như luân hồi, nhân quả, vô thường. Luật vũ trụ chỉ lợi ích cho những ai hiểu biết và chấp nhận nó nhưng hết sức ghê gớm đối với những ai chống đối nó…
Anh Văn vẫn tiếp tục:
– Giải thích điều này sẽ rất khó em ạ, nhưng có thể tạm hình dung như một nốt nhạc, tự mình nó thì không có ý nghĩa gì. Một bản nhạc chỉ hay khi có sự xuất hiện của những nốt nhạc khác và chúng phải đồng điệu tương hỗ lẫn nhau. Sự tương hỗ này có tính tự do, không thể nắm giữ mà chỉ có thể cảm nhận được qua những âm điệu du dương trầm bổng. Nếu phân tích âm điệu này thành từng phần nhỏ, ta chỉ còn những nốt nhạc rời rạc vô hồn.
Chính bỗng ý thức rằng từ trước đến nay cuộc sống của mình còn một thiếu hụt quá lớn, đó là trải nghiệm Tâm thức. Đây quả là một trải nghiệm không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, không thể suy xét bằng lý luận, không thể nghĩ bằng triết lý mà là một trải nghiệm trực tiếp. Chuyến viếng thăm ngắn ngủi thủ đô xứ Chăm pa đã ảnh hưởng đến tâm hồn cậu một cách kỳ lạ. Cậu chợt nhớ đã đọc được ở đâu đó rằng “Người vô thần chỉ tin vào khoa học, các nhà khoa học lại tin vào Thần Học» và lời phát biểu của Werner Heisenberg chủ nhân giải Nobel Vật lý năm 1932, cha đẻ của cơ học lượng tử như khẳng định thêm điều đó: «Ngụm nước đầu tiên từ cốc nước khoa học biến bạn thành một người vô thần nhưng ở đáy cốc, Thần đang đợi bạn».
Tiếng loa phóng thanh vang lên thông báo khách đi Hà Nội chuyến 20h45 vào làm thủ tục. Chính đứng lên, lần đầu tiên cậu ôm chặt anh Văn, người đàn ông mới quen, bằng cả tấm lòng chân thành. Chính sẽ nhớ lắm sự thân thiện, nồng hậu và ấm áp của các bạn Lào. Nhất định cậu sẽ quay lại!
Còn trước mắt, chuẩn bị về gặp bố mẹ và gia đình, và nhất là làm thế nào để một người vô thần như bác Tích nghe và tin câu chuyện Người mẹ Lào?
Paris 05/05/2020
Hiệu Constant