Từ bốn năm trước khi in tập thơ Lửa thiêng (NXB Đời nay, Hà Nội, 1940), Huy Cận đã có thơ trên các báo Tràng An, Sông Hương (bút danh Hán Quỳ) và báo Đời nay… Ngay đương thời, thơ Huy Cận đã sớm được chào đón, ghi nhận, đánh giá cao.

Các bài tựa, giới thiệu chân dung, phê bình, đọc sách, tổng kết của Xuân Diệu, Hội Thống Vũ Văn Lợi, Lương An, Lương Đức Thiệp, Hoài Thanh – Hoài Chân, Vũ Ngọc Phan, Kiều Thanh Quế… đã đi sâu phân tích những phương diện cơ bản nhất về hồn thơ, nguồn cảm xúc vũ trụ, giọng điệu, nội dung và hình thức nghệ thuật thơ Huy Cận.

Trước một năm, người bạn thơ đàn anh Xuân Diệu (hơn Huy Cận 3 tuổi) đang nổi tiếng trên thi đàn với tập Thơ thơ (1938) và nhiều bài luận sắc sảo về thi ca trên báo Ngày nay (Thơ ngắn, Thơ ái tình, Đôi lời tự thuật về tập Thơ thơ, Thơ của người) và đến năm sau (1939) lại nồng nhiệt giới thiệu Huy Cận với công chúng yêu thơ. Thi nhân 23 tuổi Xuân Diệu trân trọng vinh danh chàng thơ 20 tuổi qua bài viết Thơ Huy Cận:

“Đã giáp một năm nay, Huy Cận đi tới giữa chúng ta với những bài thơ đặc biệt, với một tâm hồn có nhiều hương vị, một kho tàng tuy đương hỗn tạp nhưng thực là giàu. Bổn phận của chúng ta đối với văn chương Nam Việt, chẳng phải là ráng thấu hiểu để yêu mến những văn tài mới lên hay sao?

Thơ Huy Cận cũng thuộc về hạng thơ vừa xem qua thì dường như khó khăn, nhưng kỳ thực không có gì bí hiểm. Huy Cận cũng là “một người của đời, một người ở giữa loài người”, ông không đi với lối thơ phù phiếm, mộng mơ. Ông chỉ nói lòng người của ông, hồn người của ông, và thơ ông càng đẹp, càng xinh, khi chứa đầy hương vị của đời, của sự sống” (Ngày nay, số 166, ra ngày 17-6-1939)…

Xuân Diệu tinh tế cảm nhận và đặc biệt đề cao các đặc tính hương vị – màu sắc – cảm giác của hồn thơ Huy Cận:

“Hương vị, đó là một đặc tính của thơ Huy Cận. Thơ ông không lộng lẫy, không kiều diễm, không chú nơi thanh sắc, không nở ra như những đoá hoa rực rỡ; thơ ông không khoe tươi. Thơ ông như nụ mùa xuân, như trái mùa hè, gói gắm lại, nhưng đầy căng nhựa thơm và mật ngọt. Ông không làm mê ta bằng màu sắc và âm điệu; ông có một sức quyến rũ lạ lùng hơn, khó hiểu hơn: là mùi thơm. Thơ ông phô bày một cái gì thầm kín, rạo rực; thơ ông không phải là rượu đã rót vào chén, thơ ông là men đương lên; thơ ông không phải hoa sẵn trên cành, thơ ông là dòng nhựa đương chuyển. Ông cảm nghe sức sống, cái nao nức của cảnh vật, cái tình ý của thiên nhiên. Ông thấy đời tựa hồ như một thân thể đẹp đẽ tươi tốt, và máu đời chảy trong các mạch:

Nghe mạch đời đang thao thức âm thanh,

Và nhạc sống vẫn âm thầm tiến tới…

Ông cũng là một phần của tạo vật mạnh mẽ ấy, nên ông biết đời trong lúc đời còn chuyển, còn nao, còn sắp sửa, chứ không chỉ trong khi đời đã thành sắc, thành hình. Tả lá đẹp, ông nói một cách riêng, để ta thấy công của nhựa:

Rừng hân hoan muôn vạn nỗi dày bày,

Của nhựa mạnh thành tơ trong lá mới.

Tả buổi chiều xuân, Huy Cận không tả bằng màu sắc, mà tả bằng những cảm giác đã lắng nghe rất kỹ lưỡng trong tâm hồn ông và trong thân hình của tạo vật; buổi chiều của ông rất mạnh mẽ trẻ trung:

Hai hàng cây xanh

Đâm chồi hy vọng;

Ôi duyên tốt lành!

Én ngàn đưa võng,

Hương đồng lên hanh…

… Nhạc vươn lên trời;

Đời măng đang dậy

Tưng bừng muôn nơi;

Mái rừng gió hẩy

Chiều xuân đầy lời.

Thơ Huy Cận hay tả cái đương dậy, cái đương lên, nên có một sức mạnh đặc biệt: không phải cái mạnh ồ ạt của biển lớn, không phải cái mạnh nặng nề của núi to, không phải cái hùng dũng rầm rộ; cái mạnh của Huy Cận là thứ mạnh hoá học, sức mạnh thầm của men, của rượu, của lửa ngầm ngấm, của nắng, của mặt trời. Huy Cận yêu những sự chuyển nao thầm kín, nên ông hay nói đến rừng, ông thích “đời măng hoa cỏ dại”, thiên nhiên, tươi mạnh, xanh tốt như những người trẻ trai. Cái thiên chân kỳ lạ của ông thấy cây liên lạc với người; hai bên cùng vươn lên để kiếm gió xa, gió lạ, và “họa điệu” với nhau. Cũng như một buổi chiều kia, nằm trông lên, ông thấy trời là biển, gió là triều, lá là thuyền, và ông cho ra những câu thơ rào rào đầy gió, hai lần bát ngát, vì cái bát ngát của biển đã gồm trong cái bát ngát của trời:

Giữa trời hình lá con con,

Trời xa sắc biển, lá thon mình thuyền.

Gió qua là ngọn triều lên,

Hiu hiu gió đẩy thuyền trên biển trời.

Cái mạnh mẽ của Huy Cận là cái mạnh của sự sống, chứ không phải cái mạnh của sức lực. Ông hay nhắc đến những chàng trai:

Đời trẻ mạnh thơm như trang sách mới,

Hồn mở rộng và giác quan phơi phới.

Còn gì dương tráng cho bằng một chàng thiếu niên mười chín tuổi! Cho đến mùa xuân của ông vẫn là một xuân mạnh hơn là một xuân đẹp, có những chàng trai:

Luống đất thơm hương mùa mới dậy

Bên đường chân rộn bước trai tơ…

Và người học sinh nào đã đọc bài “tựu trường” mà không nghe trong lòng nao chuyển cái tuổi mười lăm “mắt tin cậy và tóc vừa dưỡng rẽ” mang một cái rương nho nhỏ và một linh hồn bằng ngọc, và làm lưu – học – sinh! Huy Cận rất thích những mùi thơm, nên ông nhắc và gọi:

Người bạn nhỏ! Cho lòng tôi theo ghé!

Không nỗi gì có thể vuốt ve hơn.

Đêm tựu trường mùi cửa sổ mới sơn,

Tủ mới đánh và lòng trai thơm ngát…

Với những ý sống hiền hoà như vậy, Huy Cận yêu đời một cách đầy sức khoẻ, cái gì cũng “thơm như thể da người”, cũng lành, cũng tốt; hễ cái gì theo sự sống, theo tự nhiên, là ngon ngọt như cơm chín, nước trong. Và Huy Cận yêu người, và ông muốn tình yêu là sự thẳng ngay, không “mặc cả thiệt hơn”, không trốn tránh, không suy tính. Ông hơi lạ rằng sao người ta lại có thể không yêu nhau, không tìm cách gần nhau để “trốn bơ vơ”. Ông than: “Chân theo lòng, mà người chẳng theo tôi” và cầu khẩn:

Đường không dài: người tránh để thêm xa;

Gặp ngay đi! Đời may rủi lắm mà!

Huy Cận đa tình, tâm hồn ông là một cô gái xưa rón rén ung dung, trông rất nết na dè dặt, kỳ thực hay liếc trộm và ưa viết thư tình. Ông thu hợp cái rụt rè của Á Đông và cái tươi đậm của Âu Tây, để làm nên cái “mạnh thầm” đặc biệt của Huy Cận. Ông yêu biết bao, yêu mãnh liệt, nhưng hay giấu, rồi khi “tình mất”, ông ngồi trách mình sao đã quá rụt rè. Huy Cận góp bao nhiêu đẹp tốt của Á Đông, nhất là cái lửa tro nồng ấm ở bên trong, và cái xa vắng mênh mông của thời cũ”…

Xuân Diệu nhấn mạnh chất thơ với “nỗi buồn mênh mang của thời gian”, “một cái hay rất mênh mông” và “bao nhiêu bâng khuâng thương nhớ” trong thơ Huy Cận:

“Với những câu thơ cổ kính, phảng phất một linh hồn Đường thi, Huy Cận thành thực nhớ và ngơ ngẩn yêu những cái vu vơ mờ mịt. Ông gợi cảnh cũ, không biết rõ là cảnh Tàu hay Việt Nam, chỉ thấy xưa, thấy xa, thấy vắng lặng: đó là cả nỗi buồn mênh mang của thời gian:

Buồn gieo theo gió veo hồ,

Đèo cao quán chật, bến đò lau thưa.

Đồn xa quằn quại bóng cờ,

Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về.

(Chiều xưa)

Dừng cương, nghỉ ngựa non cao,

Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon…

Đi rồi, khuất ngựa sau non;

Nhỏ thưa tràng đạc, tiếng còn tịch liêu…

(Đẹp xưa)

Một buổi trưa không biết ở thời nào,

Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao,

Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ,

Mà đôi lứa đứng bên vườn tình tự…

(Đi giữa đường thơm)

Xưa hay là xa, Huy Cận hay nhớ nhung, nhớ không biết là nhớ cái gì, chủ đích không có, nhưng cảm giác thật rõ ở bên lòng. Đó chỉ là nỗi “nhớ hờ”,

Ôi ! Nắng vàng sao mà nhớ nhung!

Có ai đàn lẻ để tơ chùng,

Có ai tiễn biệt nơi xa ấy,

Xui bước chân đây cũng ngại ngùng.

Nếu được là nhớ tiên, nhớ Thiên Thai, thì cái nhớ còn có hình sắc. Huy Cận nhớ lạ lùng hơn, mênh mang hơn. Cả cái lành lạnh xa xa của không gian, của quá khứ, của cái không – biết – nơi – đâu và cái không – biết – thời – nào đã đến trong cái Buồn đêm mưa:

Đêm mưa làm nhớ không gian,

Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la

Tai nương nước giọt mái nhà,

Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn…

Trong mấy câu tuyệt diệu ấy, Huy Cận cho ta hưởng một cái hay rất mênh mông, một cái hay làm cho ta rợn mình vì lạnh lẽo. Ông còn gồm lại bao nhiêu ảo não cô đơn, và bao nhiêu bâng khuâng thương nhớ trong những câu thơ rung động:

Cô hồn vạn thuở buồn đơn chiếc,

Có lẽ đêm nay cũng ngủ nhờ.

(Ngủ chung)

Thổi lạc hương rừng cơn gió đến,

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài…

(Nhớ hờ)

Nói sao hết, nói sao rõ được cái man mác rất thiết thực và rất vẩn vơ trong thơ Huy Cận? Đó chẳng phải là đáy sâu thẳm của linh hồn ta ư? Ông thương những hồn ma chịu rét mùa đông, ông tưởng thấy họ đương nương ấp nhau trong đêm giá. Ông nhặt “dấu chân trên đường”, ý mới ngộ nghĩnh và man mác làm sao! Ông lượm những dấu bụi để xem những bước chân đã đi qua và đã biến mất”…

Rồi Xuân Diệu đi đến khái quát tầm thời đại – phẩm chất tinh thần thời đại của thơ Huy Cận trong sợi dây liên lạc với truyền thống và mối quan hệ Đông – Tây:

“Ông thân mật, ông ái ân, nhưng bao giờ cũng có cái vụng về, cái thầm kín của ông, cái ngậm ngùi vô cớ.

Huy Cận! Một tâm hồn đặc biệt quá, nồng cháy bên trong, e lệ bên ngoài, hay nói nhỏ và hay làm thinh, để cho men lòng càng rạo rực hơn nữa; một tâm hồn hãy lặng yên để nước mắt chảy, không biết khóc vì cái gì; vừa mạnh, vừa yếu, rất mới và rất xưa, rất Âu – Tây và rất Á Đông: nghĩa là cả con người, con người phức tạp của muôn thuở.

Thơ Huy Cận không phải là một lời hứa hẹn nữa. Thơ ông chỉ chờ một ít thời gian để trút hẳn cái vỏ còn sót lại, và lộ ra bao nhiêu nụ lộc xanh tốt, mạnh cứng, cho ta hưởng một hương sống rất lạ lùng”…

Vào tháng 6-1940, khi đang làm việc ở Nha Thương chính tỉnh Mỹ Tho, Xuân Diệu đã kịp viết lời tựa cho tập Lửa thiêng của Huy Cận và xuất bản ngay trong năm này. Xuân Diệu mở đầu bài Tựa với những dòng trang trọng:

“Đời xưa có một người thi sĩ lành như suối nước ngọt, hiền như cái lá xanh; gần chàng, người ta cảm nghe một nỗi hoà vui, như đứng giữa thiên nhiên, tâm hồn thơ thới. Thi sĩ thuở xưa làm những bài thơ bao la như lòng tạo vật. Xưa kia, chàng thương mến cỏ hoa, yêu dấu ân tình. Xưa kia… nhưng không! Chàng sống bây giờ đây, ở “nửa thế kỷ hai mươi”, đang đi giữa đường phố kia, mặt ngước lên, mái tóc sau đầu vồng vồng như túp lông con cò, con hạc. Ấy là Huy Cận đó; nhưng một thi sĩ “thiên nhiên” như ở chàng thì ở thời nào chẳng được, ở thời này cũng như ở thời xưa; chàng như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian; người ta muốn tưởng linh hồn Huy Cận là đám mây kia, là nỗi hắt hiu trong cõi trời, là hơi gió nhớ thương…

Trong thơ Việt Nam, nghe bay dậy một tiếng địch buồn. Không phải sáo Thiên Thai, không phải điệu ái tình, không phải lời ly tao kể chuyện một cái “tôi”; mà ấy là một bản ngậm ngùi dài: có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc, bông lau; có phải niềm than vãn của bờ sông, bãi cát; có phải mặt trăng một mình đang cảm thương cùng các vì sao? Tiếng rền rĩ dịu êm sẽ vấn lấy ta như một dải lụa ôm ấp một vết đau; tiếng len thấm thía vào hồn ta như khí hậu của núi đèo; tiếng làm thành sương, đọng lệ trên mắt ta… Thơ Huy Cận đó ư? Ai nhắc làm chi những nỗi thê thiết của ngàn đời, ai động đến cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế; những lời muôn năm than thầm trong lòng vạn vật, ai thuật lại mà não nuột lắm sao!”…

Đồng cảm và đọc kỹ, hiểu sâu Lửa thiêng, Xuân Diệu thấu suốt tâm thế của một “linh hồn trời đất”, “hồn xưa”, “cái sầu của vũ trụ”, “cái thương vô hạn… cái tủi vô cùng” – những phương diện mà ngày nay chúng ta định danh là thi pháp thời gian, không gian, giọng điệu nghệ thuật:

“Thơ Huy Cận không được vui. Âu cũng là một sự tự nhiên của đất trời: hàng phi lao đứng bên sông xanh kia, gió xa thổi vào, cứ tự nhiên phát ra những lời rầu rĩ. Tại phi lao buồn hay tại gió buồn. Tại gió buồn hay chỉ tại gió bay qua biển cả, thấy nhiều không gian quá mà sinh ra bâng khuâng? Làm nên điệu buồn thương duyên cớ vốn là biển cả đó thôi; mênh mông bao giờ cũng buồn; biển ra chân trời rồi biển tiếp với đại dương, biển càng sầu to vì biển quá rộng lớn.

Linh hồn Huy Cận là một linh hồn trời đất; nói thế không sai đâu! Xem suốt tập Lửa thiêng, cái cảm giác trội nhất của ta là một cảm giác không gian: tự nghe xa vắng quanh mình; trên thiên văn đài của linh hồn, nhìn cõi bát ngát; một cái buồn vời vợi dàn ra cho đến hư vô. Huy Cận quá cảm nghe cái mênh mông, thì giọng thơ của người cũng lây cái sầu của vũ trụ. Những bài thơ đôi khi vắng vẻ quá: “Đèo cao quán chật, bến đò lau thưa“, “Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người“, hay là “Sầu thu lên vút song song“; chỉ có trời đất ngơ ngẩn với nhau.

Thơ Huy Cận có một hồn xưa là tại đó. Phong cảnh thường bay hết sắc màu, thường chẳng có xôn xao, chỉ những nét lặng lẽ như tranh, làm thành những áng mơ tuyệt diệu. Cho đến những tình người của Huy Cận cũng như không có thời khắc: ta không thấy những chi tiết nhỏ nhặt của đời hằng ngày, những rạo rực mau chóng trong phút giây; chỉ thấy một tấm lòng thương yêu không biết có tự đời nào, và đoạn thảm, hồi vui cùng nhuốm một màu vĩnh viễn.

Chàng than nỗi tháng ngày vùn vụt, bảo rằng hoa xuân không đậu, đời thoảng mùi ôi, trong khi mình chưa sống hết tuổi xuân, đang còn ở giữa độ măng trẻ của đời người! Cái tiếc sớm, cái thương ngừa ấy chẳng qua là sự trá hình của lòng ham đời, là cái tật dĩ nhiên của kẻ yêu sự sống. Không yêu sự sống hay sao, một người thường có những cái nghiêng tai kỳ diệu: khi mùa xuân cựa mình, khi những ý tươi lên rún rẩy trong cổ chim, khi “nhạc vươn lên trời”… lòng ông cũng theo hăng hái; và thơ ông mang ngầm sinh lực như men ủ nắng, tưởng chừng câu thơ có nhựa, sắp nứt ra như một cái mầm căng.

Nhưng mới sau câu vui, lại có câu sầu. Ta cũng đừng vì vậy mà trách chàng Huy! Cái buồn Huy Cận là cái thương vô hạn hoá thành cái tủi vô cùng: ấy là thứ “hận sầu dài dặc lâu bền nó gieo hoạ trong lòng bọn thi sĩ”. Nỗi buồn đó vốn là nỗi buồn chung của con người; bọn thi sĩ chúng tôi nhẹ lòng nhẹ dạ, nên lĩnh mang giùm tất cả cho nhân gian! Chuyện ngày tháng phôi pha, chuyện cuộc đời quanh quẩn, chuyện linh hồn tù hãm, thân thể bùn lầy, chuyện mùa đông hay buổi chiều quá đỗi thê lương như thế gian sắp bị tiêu diệt, chắc không phải là chuyện một mình Huy Cận, ai cũng nghe, mà cứ để trong cõi mù mờ của tình cảm; chúng tôi nghe rõ và nói ra, nên chúng tôi thành những người hay thở than”…

Từ đây Xuân Diệu đưa ra những cách hình dung khác nhau về thơ Huy Cận, phác họa những cách đọc, cách tiếp nhận và mối liên hệ từ người đọc trở lại tác phẩm – tác giả – đời sống tinh thần xã hội:

“Huy Cận nói hộ cho ta đó; những giọt nước mắt thường đến quanh mí rồi ngừng, Huy Cận đã vì ta để rơi xuống má; cái linh hồn ấy bơ vơ không kể hết, kiếp người lang thang, đất trời trôi nổi, lạnh lắm, nhân gian ôi! Ta thấy người thơ đi trốn cô đơn; trốn ở đâu bây giờ? Hồn bọn thi nhân thường là một món hàng ế; bán thì người ta không biết giá, mà cho, họ nhận cũng chẳng ra tuồng. Vũ trụ mênh mang thế, một người đời làm sao cho ta nguôi được những ám ảnh bao la! Và có say đắm một đôi ngày, cũng không quên được cái bâng khuâng để lại từ kim cổ.

Trong đời, Huy Cận còn nghe đơn chiếc, huống chi tưởng tượng lúc sang bờ vô định bên kia! Nghĩ mà xem, cái chết rét mướt là chừng nào! Nay còn đây, nằm ngủ với gối chăn, khăng khít cùng da thịt, mà chưa đủ ấm; đến khi một mình nằm dưới đất, thì còn ai vào thăm, còn ai ôm ấp, còn đâu mặt trời và chim kêu!

Nói về cái chết, Baudelaire, thi sĩ sở trường môn ấy, tỉ mỉ đếm từng con dòi, vạch từng bộ phận ươn thối rữa tan; Baudelaire chỉ làm ta gớm ghê như gớm những vật dơ bẩn. Huy Cận không tả gì hết, mà đem đến những cảm giác tái tê, thấm thía hơn biết bao! Người thi sĩ Tây phương đứng bên ngoài nhìn những thi thể, người thi sĩ Đông phương nghe cái chết bằng tình bên trong của mỗi người. Hư vô càng giá căm căm, khi Huy Cận bày những cảnh sống tội nghiệp của người chết; họ tránh ngọn gió lò cửa mộ, họ ngủ nhờ với nhau, họ nằm đợi chờ; ta thấy những hồn lạc loài vơ vất trong lạnh buốt, tối căm; ta quá xót thương, và rợn mình, như gió âm ty đã thổi đến.

Mà Thê lương của sự chết cũng chỉ là một phần của Thê lương lớn, của Thê lương chung. Sóng gợn tràng giang, trăng phơi đầu bãi, hay dấu chân gió thốc, gánh xiếc đi qua: cũng vẫn là một nỗi vắng vẻ ấy; ta thấy xa, xa và rất xa; lòng người rộng rãi quá cho đến nỗi làm một với đất trời; và trời đất, và lòng người là một cõi mông lung, một khung mơ nó dịu dàng ru ta, nhưng vừa ru vừa làm cho ta khóc.

Xuống dưới đáy tâm hồn ta, tất nhiên ta thấy cái sầu cốt tủy. Sự thật ấy, Huy Cận cứ thấy luôn:

Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.

Chính chàng cũng tự nhận như vậy. Và nghe thơ Huy Cận, tự nhiên lòng ta lây cái cảm thương không cùng của thi sĩ và trước nhất, ta cảm thương người thi sĩ rất nhiều cảm thương. Ta muốn nâng linh hồn bơ vơ kia, ôm lấy an ủi: “Chúng tôi khuây khoả trong chuyện đời, ráng lấp cho đầy cái khoảng trống trong linh hồn bằng những sự thế linh tinh; chúng tôi sợ sầu, nên làm ngơ với những nhớ thương dằng dặc. Nay người nói ra, chúng tôi càng nhớ lại; chúng tôi ngước mắt nhìn lên cõi trời để thấy hình ảnh hồn chúng tôi. Chúng tôi cũng bơ vơ; mỗi hồn người là một cõi bơ vơ, trong đất trời là một khung bơ vơ; chúng ta đồng một bơ vơ với nhau, vậy thì người cũng bớt bơ vơ một chút”…

Tập thơ in ra vừa kịp để Mộc Khuê Kiều Thanh Quế ghi danh vào cuộc tổng kiểm kê Ba mươi năm văn học (NXB Tân Việt, H., 1941) dẫu chỉ với một dòng chơi chữ bông lơn: “- Huy Cận trịnh trọng đốt Lửa thiêng (1940)”…

Tiếp theo, trong bài giới thiệu Lửa thiêng trên báo Tràng An (số 12, tháng 3-1941), nhà thơ đồng thời là nhà phê bình Lương An trước hết đặt tiếng thơ trữ tình Huy Cận trong tương quan với thời cuộc và cả một thế hệ thi nhân:

“Đọc những bài thơ này, người ta ngỡ đâu như đọc bài Premières Solitudes của Sully Prudhomme, tả bọn học trò còn nhỏ phải đưa vào trường, đêm khuya nhớ nhà ôm nhau mà sụt sùi.

Tuy nhiên cái đời học sinh trẻ thơ ấy có bao giờ lâu dài được đâu, người ta chỉ có thể vô tư vào độ hai mươi trở xuống; từ tuổi ấy trở lên người ta đã bắt đầu bước vào cuộc đời và nhấm vị chua cay của nhân tình thế sự. Tâm trí, hoài bão, ý niệm người ta cũng đổi khác đi. Lúc này là lúc phải lo âu, phải suy nghĩ để tìm lấy một xu hướng.

Thi nhân của ta cũng thế. Tuy sự thay đổi trong đời chàng chỉ là một sự thay đổi không khí cỏn con nhưng cái tuổi không cho phép chàng ngây thơ như trước nữa. Bởi lẽ ấy người ta bắt đầu thấy Huy Cận buồn buồn. Mối buồn của thi nhân bao giờ cũng là một mối buồn vô hạn. Huy Cận cũng trở nên thi sĩ của tình cảm thống thiết, cũng tham lam đòi hỏi tình yêu, nhưng chàng thực chưa nặng tình cùng yêu mến như “Bạn chàng Xuân Diệu”.

Chàng cũng yêu tất cả, nhớ tất cả. Tâm hồn chàng là một khu vườn cũng theo mùa mà nở hoa hoặc hiu quạnh. Tâm hồn chàng bây giờ là đối tượng của những hiện tượng của thời tiết. Một điều đáng chú ý là cái nhớ của chàng rất đỗi mênh mông và ôm trùm cả vũ trụ.

Nuôi một mối tình muôn dặm, yêu vẩn vơ một nàng cỡi ngựa trong rạp xiếc, nằm trông lên thả mộng ra khắp phương trời, nếu không phải chàng Huy Cận đang độ vô tư lự thì là ai nữa! Những hành động thơ ngây, những mối tình trẻ trung ấy phải là của một chàng thi nhân sống ngoài nhân tình thế sự; chàng thi nhân ấy nếu không phải Huy Cận thì là ai nữa! Nhưng ngày thơ ấu ấy bây giờ không còn nữa. Bây giờ là độ thanh xuân chạm trán với cuộc đời, bây giờ là lo âu, là nghĩ ngợi. Bắt gặp cảnh biệt ly mà sầu, đi giữa đường thơm mà lo tình mất, thấy dấu chân trên đường mà thẫn thờ, nghe mưa rơi lác đác mà buồn buồn, chao ôi, sao lòng chàng thi nhân của ta thiết tha và dễ cảm xúc đến thế”…

Từ đây Lương An đi sâu cắt nghĩa, lý giải chất thơ “sầu vạn cổ” và theo đó là vẻ đẹp hình thức, câu chữ làm nên chất lượng thơ Huy Cận:

“Sở dĩ Huy Cận buồn thương như vậy là vì chàng lo sợ một ngày rất gần hạnh phúc sẽ không cười duyên với chàng nữa, mà chàng thì ham sống và tin vào cuộc đời quá. Chàng sầu vì tâm can chàng bắt chàng phải thế. Đó là một trong những lý do đã đưa chàng lên lầu thơ bất tuyệt. Mối sầu của chàng có thể cho là một mối sầu vạn cổ.

Từ đây Huy Cận là một con người nặng tình sông núi, cảm gió sầu trăng. Bây giờ chàng đã thấy những sự mâu thuẫn của đời nên thơ chàng cũng rẽ vào lối “đoạn tràng”. Chàng chạy theo dõi một mối tình mất mà thương tiếc; chàng ngậm ngùi khi nắng chiều xế vàng trên bãi; chàng nhớ nhà vì một cảnh tràng giang; chàng ngơ ngẩn khi bắt gặp một cảnh thu trên núi rừng; chàng thẫn thờ sau một cái xe tang; chàng đau khổ khi nghĩ đến một ngày sắp tới người sẽ mất hết linh hoạt để “bước vào mồ nhỏ tí”. Chàng đã bị những sự mắt thấy tai nghe hàng ngày cảm hoá và làm cho xúc cảm nhiều quá. Ý nghĩ của chàng chỉ quanh quẩn trong cõi sầu thương; chàng là thế đó, trọn một đời thương nhớ và hồn bị thiên hạ bỏ đìu hiu; chàng than thở với Thượng đế, đã làm ra thân thể con người để đau khổ và để làm nên tội lỗi.

Huy Cận sinh ra với một tấm linh hồn đơn chiếc, đa sầu đa cảm. Chàng than van không có bạn bè tri kỷ, chàng đi bơ vơ trên đường đời âm thầm và đau đớn. Tình yêu không lưu luyến chàng, mọi việc gợi ra trước mắt chàng sự ê chề, sự chán ghét. Tất cả những nguồn sống ở đời đối với chàng đơn sơ quá nên không thể làm cho cái tinh thần sinh hoạt của chàng (vie intellectuelle) đầy đủ được.

Tả một phong cảnh tráng lệ biết bao. Mây đùn núi bạc, chim nghiêng cánh nhỏ, nhẹ nhẹ ánh chiều sa, tưởng ngần ấy cũng đã đầy đủ như một bức tranh của một họa sĩ tài hoa. Chính thi nhân cũng nhận rằng cái cảnh tràng giang ấy đã làm cho mình ca tụng và mê mẩn. Ta hãy nghe thi nhân nói cảm giác của mình:

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Ngày xưa, Thôi Hiệu đứng trước cảnh lầu Hoàng Hạc mà ngậm ngùi và thấy khói sóng trên sông mà nhớ nhà:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị,

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Nhưng ở đây, Huy Cận thấy trời nước mông mênh quá, tráng lệ quá mà nhớ nhà. Vì lẽ ấy mà cảnh không tang thương, lòng không hoài cổ, sông không đùn sóng mà cũng ngậm ngùi mối tình lữ thứ:

Tả một buổi chiều xuân, Huy Cận viết:

Hai hàng cây xanh

Đâm chồi hy vọng…

Nhạc vươn lên trời

Đời măng đang dậy.

Thật là nói đủ tất cả hy vọng, trẻ trung, êm dịu của một mùa xuân.

Tả một cảnh thu ở núi rừng:

Non xanh ngây cả buồn chiều,

Nhân gian nghe cũng tiêu điều dưới kia.

Xem chữ “ngây” nó nhẹ nhàng, thấm thía biết bao. Không, mùa thu đến non xanh có buồn gì đâu; non xanh chỉ thấy trời buồn mà buồn lây mà thẫn thờ lây đấy thôi.

Đại để chỉ đơn cử ngần ấy tỉ dụ, kể cho hết thì quá dài. Những chữ vừa trích ra đây trong tập Lửa thiêng không phải ít. Đọc nó lên là thu được một cảm giác, thấy được một cử động, nghe được một dư thanh. Thực là những chữ “thần tình”.

Thơ Huy Cận nhờ thế mà trong như thuỷ tinh và đẹp như ngọc thạch. Đọc Xuân Diệu thấy trong người sôi nổi ngọn trào lòng rào rạt; đọc Huy Cận thấy trong người lâng lâng, tâm hồn khoan khoái. Trí phán đoán sáng suốt, mắt nhận xét tinh vi, cách dùng chữ thần tình. Đó là ba đặc điểm của Huy Cận.

Văn Huy Cận là một thứ văn chải chuốt; tình Huy Cận là một tấm tình đơn giản mà thắm thiết.

Đừng thấy chàng buồn buồn mà cho chàng là người lạnh nhạt hững hờ; đừng thấy văn chàng chạm trổ quá mà cho là mất vẻ tự nhiên. Huy Cận viết văn rất điêu luyện; song không bao giờ để rơi những ý niệm của mình. Bởi vậy khi đọc thơ Huy Cận ta thấy trong người nhẹ nhàng nhu khoái. Đã lâu lắm từ ngày Thơ thơ ra đời đến nay mới lại có một tập thơ đã khiến người phải đọc đến mà sinh vô hạn cảm tình với tác giả.

Tập thơ Lửa thiêng là một tập thơ rất đáng chú ý về tình cảm cũng như về văn pháp. Không cần so sánh cũng đủ nhận thấy đó là một tập thơ hay và tác giả là một thi nhân có đặc tài. Trong công cuộc xây đắp thi giới nước nhà, một tập thơ như thế là tất cả một sự gắng công, và có lẽ là một công trình văn nghệ rất đáng chú ý nữa.

Huy Cận hiện đang đi tới giữa chúng ta với một tài hoa đương thời nảy nở. Tương lai của chàng chắc hẳn càng tốt đẹp và sáng lạn hơn nữa.

Lửa thiêng ra đời, được hoan nghênh nhiệt liệt, cái đó không phải nghi ngờ gì nữa. Nhưng phần thưởng đích đáng nhất cho Huy Cận là tác phẩm của chàng sẽ được sống lâu”…

Một năm sau, Huy Cận cho in tập văn xuôi Kinh cầu tự (Lê Văn Dự xuất bản, H., 1942) với cảm hứng được đẩy cao từ Lửa thiêng, hướng đến cực tả con người cá nhân siêu thoát, tan hòa trong thế giới tự nhiên, vũ trụ, tâm linh. Trong bài đọc sách Phê bình Kinh cầu tự của Huy Cận trên Tạp chí Tri tân (số 55, tháng 7-1942), Hội Thống Vũ Văn Lợi đặc biệt chú trọng đặt tác phẩm văn xuôi này trong tương quan với thi tập Lửa thiêng:

“Năm xưa nhà văn hào Pháp Paul Bourget xuất bản cuốn tiểu thuyết Le Sens de la mort (Nghĩa cái chết), mượn một thiên tình sử cao thượng, bi đát, để diễn đạt tư tưởng của tiên sinh về lẽ sinh tử ở đời. Edouard Rod cũng đã băn khoăn đi tìm nghĩa cái sống, trong cuốn Le Sens de la vie. Sinh, tử, tồn, vong, quả là một cái đề thiên cổ đã làm cho bao thi nhân, mặc khách, cổ kim, Đông, Tây, tốn công suy nghĩ, mà vẫn chưa khám phá được lẽ huyền bí của Tạo vật.

May thay, ông Huy Cận, đầy một lòng tin tưởng và tín nhiệm vào cuộc đời, đã cho ta biết “Nghĩa sự sống” một cách gọn gàng, minh bạch, trong tập Kinh cầu tự, “Ôm sự sống, hôn cuộc đời”, tác giả sau khi ca tụng không ngớt “sự sống bao la và vô lượng”, “cái chằng chịt muôn hình của sự sống”, “cái vui của Vũ Trụ” (thì “mỗi người sinh ra” chả là “một cục vui của Tạo hóa” là gì?) đã cho ta biết một cách chắc chắn rằng: “Nghĩa sự sống? Chỉ là lòng yêu sự sống mà thôi”.

Tác giả Lửa thiêng đã đứng về phương diện tình cảm để giải quyết một vấn đề thuộc về siêu hình học. Có “cái mạch sống mênh mang ồ ạt”, ông “tin tưởng ở sự sống, ở sức sống của con người”, ông “đã yêu sự sống” quá chừng nên… phải nhập cuộc (cuộc sống). Ông “xin Thượng Đế tha cho chúng sinh cái nhục héo hon, cằn cỗi”, và cầu nguyện để mong Thượng Đế thương lấy “muôn loài cằn cỗi” và cho chúng sinh “lây cái vui chuyển trời của cuộc sống”.

Nhưng Vũ Trụ không vui, cũng không buồn, vẫn thản nhiên, lãnh đạm, trước những cuộc phế hưng, dâu bể. Cũng như đóa hoa sớm nở, chiều tàn, sống, chết, là những sự tự nhiên trong trời đất. “Cục vui của Tạo Hóa” là cái quái gì? Chẳng qua “đã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra” thì phải làm tròn phận sự, gánh vác với đời, góp mặt với giang sơn, chứ có phải đâu vì “yêu sự sống quá chừng” mà nhập cuộc sống đâu?

“Vai vút mạnh, ngực dô ra”, ông Huy Cận hăng hái “đi chinh phục cuộc đời” với một tin tưởng mãnh liệt vào sự sống; nên ông cầu cho muôn loài “lây cái vui chuyển trời của sự sống”, ông tưởng rằng dưới gầm trời ai cũng “vui như cây lên, như nước chảy”, ai cũng là “giòng sông chảy ào về biển” cả.

Khi “ta vui thì ta gần Tạo vật”, lòng ta vui thì ta thấy cả Tạo vật “như tự lòng ta mà ra”; trái lại, khi “lòng yêu” của ta hầu cạn, thì sự sống cũng xa ta. Lòng ta buồn, thì “nhịp đàn của Vũ trụ” cũng lỗi. Kết luận: nếu nghĩa sự sống chỉ là lòng yêu sự sống mà thôi, thì một khi lòng yêu không còn tha thiết nữa, sự sống sẽ trở nên vô nghĩa.

Phân tách tình thương hại, tác giả cho là “một điều bịa của con người… không tự nhiên, và không mỹ thuật chút nào”. Tuy vậy, ông cũng công nhận rằng “xã hội cần đến (tình thương hại) ở dưới đồng bằng”. Nhưng, “ở trên đỉnh ta cần chi đến”; và “nếu không có lòng thương”… thì “biết đâu” ông “đã không vút lên trời từ mấy thuở”! Phải, biết đâu đấy! Ông vút lên trời, chắc là để “trông xuống thế gian cười”! Thật là “những ý nghiêng trời chuyển đất”, và “ghê gớm”. Nhưng theo Anatole France, thì tình thương hại lại là cần. Ta hãy nghe tiên sinh: “Tôi càng nghĩ đến sự đời, lại càng tưởng nên lấy sự trào phúng và bi thương làm chủ và làm chứng cho đời người. Sự trào phúng và sự bi thương là hai bạn tốt lắm; một bên cười làm cho đời người đáng yêu; một bên khóc làm cho đời người đáng kính” (Plus je songe à la vie humaine, plus je crois qu’il lui faut donner pour témoines et pour juges l’Ironie et la Pitié. L’Ironie et la Pitie sont deux bonnes conseillères; l’unne en souriant, nous la rend aimable; l’autre qui pleure nous la rend sacrée… Phạm Quỳnh dịch). – Có lẽ theo thuyết sau này đúng hơn. – Chính ông Huy Cận cũng khuyên ta: “Lá vàng có đáng thương chi, hãy dành lòng mà thương lá héo” (Kinh cầu tự, tr.42) tuy ở mấy trang trên (28) ông đã bảo rằng “lòng thương hại không đẹp đâu… không tự nhiên”. – Dẫu sao, cuộc đời là một tấn bi hài kịch, nên khi cười, lúc khóc, có điểm thêm ít trào phúng và bi thương, tưởng cũng không phải là thừa vậy. Vả lại, nếu người xưa “Thương con quốc rũ kêu mùa hạ/ Thương cánh bèo trôi rạt bể đông”, thì ngày nay, chúng ta có “thương vợ chồng Ngâu, duyên chểnh mảng; thương cha mẹ rện, phận long đong” cũng không có hại chi cơ mà!

Ông Huy Cận lại khuyên ta “nhổ hận trong lòng… mà vứt đi! Hối hận không phải là cây tự nhiên trên đất này…”. Thiển nghĩ, hối hận cũng như lòng thương hại, cần cho thế nhân lắm. Nhiều khi hình phạt của xã hội, hay “búa rìu của dư luận” cũng không làm cho người ta đau đớn bằng sự hối hận, có khi triền miên suốt đời không hết. – Một người đã phạm một điều đại gian ác, chung quanh không ai biết. Nhưng những lúc đêm khuya thanh vắng, “Một mình mình biết, một mình mình hay”, lương tâm dày vò, hối hận cắn rứt,… ví dụ kẻ kia còn nhất điểm lương tâm…, thì cái sự hình phạt thiên nhiên đó làm cho đau đớn e chề, dẫu sống đến trăm năm cũng không chắc đã nhổ được gốc trong lòng mà vứt đi một cách ung dung giản dị! Cho nên bàn tay của Macbeth đã vấy máu tội lỗi, thì tất cả những hương thơm của xứ Arabie cũng không sao gội sạch được.

Có lẽ tác giả Kinh cầu tự quên rằng hai năm trước, trong tập Lửa thiêng đã viết bài Thân thế (… Nếu Chúa biết bao nhiêu hồn ly tán. Vì đã nâng bình lửa ấp lên môi; thì hẳn Chúa cũng thẹn thùng hối hận. Đã sinh ra thân thế của con người…). – Thượng Đế, Chúa Đời còn biết hối hận thay, huống chi người!…

…Tác giả Kinh cầu tự có kiêu hãnh không? Ta cứ xem đoạn văn này sẽ rõ: “… Kẻ đọc ta ơi! Ta đang may áo trừ hao cho người đây. Ít lúc nữa tâm hồn anh mới bận tư tưởng của ta đó… Ta mong cho tâm hồn anh chóng nhớn?… ta mong anh chóng vất áo ta đi…”. Và: “Những chiều thơ dại, đã có khi ta muốn cầm trái đất trong tay mà vắt như một quả cam…”. Chắc là vắt lấy nước ngọt và bổ để uống cho đỡ khát! Vì tác giả khát khao chân lý, đang “đi tìm nguồn”. Ông Huy Cận quả đã hơn M. Barrès và André Gide”…

Tại Phần II- Thơ Việt Nam hiện đại trong chuyên khảo Việt Nam thi ca luận (Khuê Văn xuất bản cục, H., 1942), Lương Đức Thiệp đi sâu phân tích thơ Huy Cận và chú trọng đặt trong tương quan với nhiều thi nhân khác:

“Với ông Huy Cận, trường “Thơ mới” tiến vượt lên một bực nữa.

Qua những bài thơ, những bài “lục bát” đặc sắc:

… Tai nương nước giọt mái nhà,

Nghe trời nặng nặng nghe ta buồn buồn.

Nghe đi rời rạc trong hồn,

Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi…

… Ngập ngừng mép núi quanh co,

Lưng đèo quán dựng mưa lò mái ngang.

Vi vu gió hút nẻo vàng,

Một trời thu rộng mấy hàng mây nao…

… Trơ vơ buồn lọt quán chiều,

Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người…

… Đồn xa quằn quại bóng cờ,

Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về…

… Bờ tre rung động trống chầu,

Tưởng chừng còn vọng trên lầu ải quan…

… Khuya nay mùa động đầu cành,

Đồng trăng lục nhạt, vàng thanh lối gần…

… Đêm nay không khí say nồng,

Nghìn cây mở ngọn muôn lòng hé phơi.

Khuya nay trông những mạch đời,

Mùa thanh xuân dậy thức người héo hon.

Ngón tay tưởng búp xuân tròn…

… Nai cao gót lẫn trong mù,

Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.

Sắc trời trôi nhạt dưới khe,

Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng…

Ta thấy tâm hồn thi sĩ rung động. Một tâm hồn phiền toái hơn tâm hồn ông Thế Lữ và Xuân Diệu, một tâm hồn có nhuốm màu thần bí.

Hỡi Thượng đế người công phu biết mấy!

– Nhưng mọt sâu nương náu giữa lâu đài…

… Thân không chán đau, ngực sầu thở chết,

Tay bồng thân và tay nữa ôm mồ…

… Chẳng bao lâu nữa sầu trong đất,

Vĩnh viễn mùa đông lạnh chỗ nằm…

Bởi vậy thơ ông Huy Cận cũng đặc sắc hơn và nguồn cảm cũng giàu hơn. Song đáng tiếc ông hành văn còn Tây quá:

… Rồi tôi khóc, và đầu tôi ngủ gục,

Mắt tôi mờ, và tay tôi xuôi…

… Ồ những người ta đi hóng xuân.

… Bắt gặp mùa tươi lên run rẩy,

Trong cành hoa trẻ, cổ chim non…

Nhiều bài đáng nhẽ hay hơn được nữa, cũng vì ông còn thiếu cái mềm dẻo của Việt ngữ mà bị giảm giá trị. Và, qua tác phẩm của ông cũng như trong thơ Xuân Diệu, ta thấy hình bóng lờ mờ của Baudelaire:

Et dans un baillement avalelerait le monde.

(Baudelaire)

Thâu trong cái ngáp dài vô hạn

Hình ảnh lung lay vũ trụ tàn

(Huy Cận)

Tuy hai ông cũng như ông Thế Lữ có xu hướng lãng mạn. Mà cũng cả trong hai ông, nhất là trong ông Xuân Diệu, ta cũng nhận được đôi dấu vết của phong trào “Son Trẻ” bột phát (1935-38) qua những bài có cái giọng dí dỏm hay sỗ sàng:

… Vậy đó bỗng nhiên mà họ lớn,

Tuổi hai mươi đến có ai ngờ!

Một hôm trận gió tình yêu lại:

Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ…

… Ai biết người yêu nhỏ của tôi,

Người yêu nho nhỏ trốn đâu rồi?

Bảo giùm với nhé: em tôi đó,

Tròn trĩnh xinh như một quả đồi.

(Huy Cận)

… Muốn dập thơ theo kiểu Tây phương, muốn theo hình thức của thơ Pháp, những hộ tinh xoay quanh ba ngôi định tinh đang lúc chói lòa (Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận) cũng a dua đả phá niêm luật, đả phá âm hưởng. Họ có ngờ đàn ba ngôi “sao” ấy đã từng hiểu biết, mới có ý định cải cách,có ý định phá bỏ lề luật của người xưa”…

Đến công trình tổng thành Thi nhân Việt Nam (Nguyễn Đức Phiên xuất bản, Huế, 1942…), Hoài Thanh – Hoài Chân chọn in thơ Huy Cận 11 bài (đồng hạng Nhì với kiện tướng Lưu Trọng Lư), chỉ xếp sau Xuân Diệu (15 bài). Trong phần lời dẫn, hai ông nhấn mạnh chất trữ tình và những giá trị nhân văn, nhân tính, những buồn vui muôn thuở trong hồn người cùng một lối nói, một điệu thơ Huy Cận không thể trộn lẫn:

“Đã có hồi người ta tưởng muốn làm thơ hay phải là người hay khóc và thi nhân mỗi lần cầm bút là một lần phải “nâng khăn lau mắt lệ”. Nhưng buồn mãi cũng chán. Trên tao đàn Việt Nam bỗng phe phẩy một ngọn gió yêu đời, tuy không thổi tan những đám mây sầu u ám, song cũng đã mấy lần ngân lên những tiếng reo vui. Người thính tai sẽ nhận thấy trong những tiếng kia còn biết bao nhiêu vui gượng, nhưng dầu sao sự cố gắng đau đớn của cả một lớp người đi tìm vui, cái cảnh ấy ai thấy mà chẳng động lòng? Than ôi! Ngày vui ngắn ngủi, chưa được mấy năm nỗi buồn đã trở về, thảm đạm và nặng nề hơn xưa.

Nó đã trở về trong tập Lửa thiêng. Với những tính cách khác hẳn. Cái buồn Lửa thiêng là cái buồn tỏa ra từ hồn một người cơ hồ không biết đến ngoại cảnh. Có người muốn làm thơ phải tìm những cảnh nên thơ. Huy Cận không thế. Nguồn thơ đã sẵn trong lòng đời thi nhân không cần có nhiều chuyện. Huy Cận có lẽ đã sống một cuộc đời rất bình thường, nhưng người luôn luôn lắng nghe mình sống để ghi lấy cái nhịp nhàng lặng lẽ của thế giới bên trong. Ai đã so sánh “Las Mocedades del Cid” của Guillen de Castro với “Le Cid” của Corneille hay “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân với “Đoạn trường tân thanh” của Nguyễn Du đều nhận thấy trong “Đoạn trường tân thanh” và trong “Le Cid” nhiều tình mà ít chuyện. Nếu ta so sánh thơ Huy Cận với thơ hồi trước, ta cũng sẽ thấy như thế.

Huy Cận đi lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thi nhân lại có thể đúc thành bao nhiêu châu ngọc. Ai có ngờ những bước chân đã tan trên đường kia còn ghi lại trong văn thơ những dấu tích hẳn không bao giờ tan được:

Thôi đã tan rồi vạn gót hương

Của người đẹp tới tự trăm phương.

Tan rồi những bước không hò hẹn

Đã bước trùng nhau một ngả đường.

Lại có khi suối buồn thương cứ tự trong thâm tâm chảy ra lai láng không vướng chút bụi trần:

Ôi! Nắng vàng sao mà nhớ nhung!

Có ai đàn lẻ để tơ chùng?

Có ai tiễn biệt nơi xa ấy,

Xui bước chân đây cũng ngại ngùng

Phải tinh lắm mới thấy rõ lòng mình như thế giữa cái ồ ạt, cái rộn rịp của cuộc đời hằng ngày.

Đây có lẽ là một điều Huy Cận đã học được trong thơ Pháp. Nhưng với trí quan sát rèn luyện trong nền học mới, Huy Cận đã làm một việc táo bạo: tìm về những cảnh xưa, nơi bao nhiêu người đã sa lầy – tôi muốn nói sa vào khuôn sáo. Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ dừng ngựa trên non, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn. Và cũng như người đã làm thơ với những cái hình như không có gì nên thơ, người tìm ra thơ trong những chốn ta tưởng không còn có thơ nữa. Người đã gọi dậy cái hồn buồn của Đông Á, người đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này. Huy Cận triền miên trong cảnh xưa, trò chuyện với người xưa, luôn luôn đi về trên con đường thời gian vô tận. Có lúc hình như thi nhân không phân biệt mộng với thực, ngày trước với ngày nay. Cảnh trước mắt mơ màng như đã thấy ở một kiếp nào, tình mới nhóm người tưởng chừng đã hẹn đâu “từ vạn kỷ”.

Nhưng con đường về quá khứ đi càng xa, càng cô tịch; tứ bề càng vắng lặng, mênh mông. Có lẽ thi nhân trong cuộc viễn du đã có lần nhác thấy cái xa thẳm của thời gian và không gian, có lẽ người đã nghe trong hồn hơi gió lạnh buốt từ vô cùng đưa đến. Một Pascal hay một Hugo trong lúc đó sẽ rùng mình, sẽ hốt hoảng. Với cái điềm đạm của người phương Đông thời trước, Huy Cận chỉ lặng lẽ buồn:

Một chiếc linh hồn nhỏ:

Mang mang thiên cổ sầu.

Tôi nhớ lại cái buồn của một thi nhân khác, Trần Tử Ngang, ngàn năm trước, cũng đã có một cuộc viễn du tương tự như thế:

Ai người trước đã qua?

Ai người sau chưa đẻ?

Nghĩ trời đất vô cùng,

Một mình tuôn giọt lệ.

(Theo bản dịch của Ô. Võ Liêm Sơn trong Cô lâu mộng. Nguyên văn chữ Hán:

Tiền bất kiến cổ nhân,

Hậu bất kiến lai giả.

Niệm thiên địa chi du du,

Độc thương nhiên nhi lệ hạ)

Tuy nhiên điềm đạm đến đâu người ta cũng không thể một mình đứng trước vô cùng. Người ta cần phải nương tựa vào một cái gì cho đỡ lẻ loi: một lòng tin hay, ít nữa, một tình yêu, theo nghĩa thông thường và chân chính của chữ yêu. Huy Cận có lẽ đã thiếu tình yêu mà Thượng đế của người lại chỉ là một cái bóng để gửi ít câu thơ thì được, để an ủi thì không. Cho nên người thấy mình lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian. Lời thơ vì thế buồn rười rượi. Nhưng thương nhất là những đoạn thơ vui (chẳng hạn bài “Tình tự”). Ta thấy một người hiền lành lắm và non dại lắm, vui hấp tấp, vui cuống quýt, vì trong lúc vui người cũng biết buồn đương chờ mình đâu đó.

Nhưng thương hay mến có làm gì. Thương mến không đủ làm tan nỗi bơ vơ. Khoảng trống trong lòng thi nhân họa tình yêu mới lấp được muôn một.

Có người bảo thơ Huy Cận già. Già vì buồn, già vì hay kể lể những chuyện xưa. Nhưng trong đời người ta còn có tuổi nào hay buồn hơn tuổi hai mươi (Tuổi hai mươi, không phải hai mươi tuổi). Còn có tuổi nào hay vẩn vơ hơn. Tôi thấy thơ Huy Cận trẻ lắm. Huy Cận đã đưa tôi về khoảng đời tôi bảy tám năm trước. Tôi bùi ngùi thương chàng niên thiếu hồi bấy giờ đã sống luôn mấy năm trong hiu quạnh. Chàng cũng mang một tấm lòng chứa chan yêu dấu đi tìm tình yêu trong tình bạn. Và vì thế chàng cũng đã đi lầm đường. Chàng thấy cảnh trời đẹp, chàng gặp những tâm hồn cao quý, chàng được vô số mến thương. Nhưng đẹp làm gì, cao quý làm gì, thương mến làm gì, nếu lòng chàng không hề đón được ít hương ân ái. Vũ trụ bao la quá, lòng chàng giá lạnh quá, chàng muốn quên mình, quên hết thảy trong tình yêu của một người, vô luận người nào. Chàng gõ cửa hết nơi nọ chốn này song bao nhiêu tâm tư đều đóng kín.

Nỗi lòng xưa, nay sực tỉnh. Đọc thơ Huy Cận tôi đã gặp lại một người em.

Chỉ một người em? Không. Năm tháng dầu đi qua, đời tôi dầu có khác, nhưng tuổi hai mươi đã thực chết trong lòng tôi?”…

Đến mục tác gia Huy Cận trong sách Nhà văn hiện đại, Quyển ba (NXB Tân dân, H., 1943), Vũ Ngọc Phan nhấn mạnh những khác biệt những khác biệt giữa thơ Huy Cận với Lưu Trọng Lư và Xuân Diệu:

“Tác giả Lửa thiêng (Đời Nay – Hà Nội, 1940) thật đã không giống Xuân Diệu và cũng đã khác hẳn Lưu Trọng Lư. Ở Huy Cận, ta không thấy những tiếng kêu ầm ỹ, nóng nẩy như ở tác giả Thơ thơ và ta cũng không thấy cái buồn vơ vẩn và nhẹ nhàng như ở tác giả Tiếng thu. Huy Cận than thân thì ít mà góp tiếng khóc với đời thì nhiều. Cái giọng nhớ hờ, thương hão của ông đôi khi có hơi giống Tản Đà, nhưng ông lại khác Tản Đà ở chỗ có lòng tin tưởng ở đấng tối cao. Lòng tin tưởng ấy lai láng trong gần hết các bài thơ trong tập Lửa thiêng và ông đã diễn ra với cả một tâm hồn nghệ sĩ. Đứng trước thiên nhiên và nhân loại, ông là một họa sĩ giàu lòng tín ngưỡng và bình tĩnh, cần cù, ngồi vẽ những nét dịu dàng, không quá bạo, để không phải tả riêng mình, mà tả tất cả mọi người. Bởi thế sự “trình bày” của ông không phải riêng ông mới có, nó có thể là sự trình bày của tất cả những người buồn rầu và biết tin tưởng ở Trời, tin cậy ở Trời.

Hãy nghe:

Hỡi Thượng đế! tôi cúi đầu trả lại

Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang.

Sầu đã chín, xin Người thôi hãy hái!

Nhận tôi đi, dầu địa ngục, thiên đường.

(Trình bày, tr.19)

Phải tin cậy ở Thượng Đế lắm, mới có thể thốt ra những lời ấy được. Tin cậy một cách không ngậm ngùi, thương tiếc và kêu ca. Nhưng vì sao lại có sự tin cậy ấy? Vì khi mắt đã mờ, tay đã buông xuôi, thì:

Không biết nữa, thiên đường hay địa ngục;

Quên, quên, quên đã mang trái tim người.

(Trình bày, tr.22)

Mắt mờ, tay buông xuôi là lúc loài người hết cảm giác, nên, tác giả mới phải trách Trời:

Nếu Chúa biết bao nhiêu hồn ly tán

Vì đã nâng bình lửa ấp lên môi;

Thì hẳn Chúa cũng thẹn thùng hối hận

Đã sinh ra thân thể của con người.

(Thân thể, tr.25)

Trời đã tạo người không theo hình ảnh của Trời! Đó là tiếng than thở của nhân loại từ xưa và bây giờ là tiếng kêu than của Huy Cận.

Lẽ thường, ở đời, chỉ có khóc về mình, người ta mới khóc thảm thiết, còn khi khóc cả cho người và cho mình, người ta vừa gạt nước mắt vừa liếc trông người bên cạnh. Khi đã không có sự tủi thân – có riêng ai, mà tủi thân! – cái khóc của người ta không tránh sao được sự lặng lẽ. Bởi vậy, cái buồn của Huy Cận tôi muốn gọi là cái buồn của người nghệ sĩ hơn là cái sầu của thi nhân.

Đứng trước cảnh vật, Huy Cận đã nhìn bằng con mắt khách quan, dầu ông có ngỏ tình ý thì cái tình ý ấy cũng là tình ý của nhiều người khác.

Đây, một bài thơ đầy nghệ thuật, một bài thơ tả một nghệ sĩ nằm dưới gốc cây, nhìn lên chiếc lá in vào nền trời xanh thẳm và tưởng tượng là một con thuyền trước ngọn triều dào giạt, quanh quất có tiếng nhạc u huyền:

Giữa trời hình lá con con

Trời xa sắc biển, lá thon mình thuyền.

Gió qua là ngọn triều lên

Hiu hiu gió đẩy thuyền trên biển trời.

Chở hồn lên tận chơi vơi

Trăm chèo của Nhạc, muôn lời của Thơ.

Quên thân như đã quên giờ

Tê mê cõi biếc bến bờ là đâu.

(Trông lên, tr.29)

Đến những bài Đẹp xưa, Tràng giang, Thu rừng, thì thật là những bức tranh thủy mạc không hẳn của một nước nào, hay của một dân tộc nào. Cái tính cách “nhân loại” ấy có hơi cổ, hơi lặng lẽ, nhưng nó lại được cái đầy đủ, nghiêm trang, có thể đem treo ở một phòng khách lớn, cái phòng tiếp cả người thân lẫn người sơ.

Hãy đọc:

Dừng cương nghỉ ngựa non cao

Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon…

Đi rồi, khuất ngựa sau non;

Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu…

(Đẹp xưa, tr.43)

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng:

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

(Tràng giang, tr.52)

và:

Sầu thu lên vút song song,

Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu.

Non xanh ngây cả buồn chiều,

– Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia.

(Thu rừng, tr.52)

Thật là những câu tuyệt bút, đặc giọng thơ Đường, để tả những cảnh buồn, và cũng thật là “nhân loại”. Theo những câu trên này, một họa sĩ Tàu, một họa sĩ Nhật, một họa sĩ Ấn Độ, hay một họa sĩ Việt Nam, đều có thể vẽ nên một cảnh ở nước mình. Vì, người lữ thứ, con ngựa bên non, chuyến đò ngang, sắc trời, mặt nước, chim bay, rừng thu, đều không có những màu sắc thuộc hẳn xứ nào. Cả đến cái cảm giác ngây ngất trước cảnh đẹp cũng là cái cảm giác của loài người từ thiên vạn cổ mà thi nhân đã bao lần ca ngợi. Huy Cận nghệ sĩ ở chỗ đó và cũng thiếu cái đặc sắc của nhà thơ ở chỗ đó: ông đã không đem cái tâm hồn của riêng ông để hòa cùng vũ trụ.

Về tả tình cũng vậy. Huy Cận bình tĩnh vô cùng, nên dù khi “ngậm ngùi” (tr.82), khi “hối hận” (tr.38) cho đến lúc “tình tự” (tr.34), lúc “tiễn đưa” (tr.49), ông cũng giãi tỏ những tính tình bình thản như những lúc ông “nhớ hờ” (tr.63) thương hão. Thật không làm gì có những câu nồng nàn, tha thiết, nóng nẩy như mấy câu sau này của Xuân Diệu:

…Và cảnh đời là sa mạc vô liêu

Và tình ái là sợi giây vấn vít.

Yêu, là chết ở trong lòng một ít.

(Thơ Thơ, tr.29)

Trong say sưa, anh sẽ bảo em rằng:

“Gần thêm nữa! thế vẫn còn xa lắm”

(Thơ thơ, tr.31)

Hay những câu nhớ nhung đắm đuối như mấy câu này của Lưu Trọng Lư:

Bên khóm mai gầy một sớm thu,

Lòng sao thắc mắc mối sầu u.

Vắng chàng quên cả lời chàng dặn:

Dạ buồn lại thổi tiếng vi vu…

(Tiếng thu)

Cũng là những tình, những cảnh buồn, mà ở mỗi nhà thơ, một khác.

Đây hãy nghe lời tình tự của Huy Cận, những lời rất đẹp, rất êm đềm, nhưng thật không phải những lời tha thiết tự tâm can:

Thu chờ đợi, ôi, thời gian rét lắm,

Đời tàn rơi cùng sao rụng canh thâu;

Và trăng lu xế nửa mái tình sầu,

Gió than thở biết mấy lời van vỉ?

(Tình tự, tr.35)

Đó là mối đau thương giữa trời đất của con người ta không cứ ở phương nào. Hay thì hay thật, đẹp thì đẹp thật, nhưng làm sao người đọc được thấy mối tình mới nẩy nở, để có những cảm giác say sưa thì không.

Huy Cận hơn Lưu Trọng Lư và Xuân Diệu ở sự chọn chữ, lựa câu, ở sự hiểu cái ma lực của mỗi chữ, như:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy giòng.

(Tràng giang, tr.52)

Nai cao gót lẫn trong mù,

Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.

(Thu rừng, tr.101)

nhưng lại thua Lưu Trọng Lư và Xuân Diệu về thành thực.

Hãy đọc Điệu buồn của Huy Cận:

Mưa rơi trên sân,

Mái nhà nghiêng dần…

Ôi buồn trời mưa!

Nhìn trăm sao buồn

Của mưa trên sân…

Ôi lòng buồn chưa!

Đêm sa xuống gần.

Biết sao nói năng,

Nhớ chi bâng khuâng.

Cửa the gió rình;

Vườn cau nước dâng.

và một “điệu buồn”của Lưu Trọng Lư, bài Mưa:

Mưa mãi mưa hoài!

Lòng biết thương ai!

Trăng lạnh về non không trở lại.

Mưa chi mưa mãi!

Lòng nhớ nhung hoài!

Nào biết nhớ nhung ai!

Ta thấy, ở đây, riêng về âm điệu, hai bài thật khác nhau xa.

Nếu ai hỏi tôi: thơ Huy Cận thế nào? Tôi sẽ đáp: thơ Huy Cận thanh tao, trong sáng, nhưng kém về thiết tha, thành thật, là những điều cốt yếu trong thơ của Xuân Diệu”…

Sau tất cả các bài viết và ý kiến trên, đến lượt Kiều Thanh Quế – nhà phê bình số một của miền Nam đương thời – đã lên tiếng đánh giá về nền thơ đương đại qua bài đọc sách thực sự công phu Nhân đọc Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân (Tri tân, số 134, tháng 3-1944); trong đó có trao đổi, tranh luận, phản biện, lý giải về hiện tượng thơ Huy Cận:

“Quyển sách dày dặn cố ghi lại một thời đại thi ca Việt Nam chẵn mười năm 1932-1942…

…Nhận thấy Tản Đà và Quách Tấn, kẻ đứng đầu kẻ đứng cuối một thời đại thơ ca Việt Nam, chúng tôi sẵn sàng chia cảm tưởng với tác giả Thi nhân Việt Nam rằng “các thể thơ xưa chỉ biến thiên chứ không sao tiêu diệt”, và thi nhân xứ ta phải quay về dĩ vãng “để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai”.

Có kẻ lầm tưởng mong ước ấy là muốn bắt dòng thơ Việt Nam hiện đại phải quay về thể thơ lục bát của ca dao. Không! quay về dĩ vãng là quay về với tâm hồn của thời xưa, chớ phải đâu quay về các thể cách của thời xưa. Các nhà thơ hiện đại muốn phô diễn những đầu đề mới nào cũng được, miễn phải gây lấy cho câu thơ Việt một cái hồn Việt Nam. Đừng viết một câu thơ Việt để cho người Việt Nam lầm tưởng đó là của một người ngoại quốc mới tập viết quốc văn ta. Tôi không bảo thơ Xuân Diệu, Huy Cận vô giá trị. Tôi cũng nhận thấy trong đó một hơi hớm của tuổi hai mươi bồng bột, nhưng tôi cho rằng đó chỉ là những lời thơ để đọc trong một thời. Rồi thì ta cũng phải yêu mến cái tâm hồn nghìn xưa của nhân dân Việt Nam ta. Tâm hồn ấy chuộng sự sáng sủa và sự du dương. Câu thơ du dương là câu thơ đầy nhạc điệu. Tôi không cho thơ Xuân Diệu, Huy Cận hoàn toàn tối nghĩa, nhưng cũng có lắm câu không được sáng sủa như: Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh (Xuân Diệu), Đất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng (Huy Cận). Hai động từ trong hai câu thơ ấy “mới” quá, ta chỉ nên dùng trong văn xuôi, đừng nên vội dùng trong văn vần. Vì văn vần là một thể tổng hợp, đã khó hiểu rồi, ta nỡ nào còn cố làm thêm khó hiểu nữa. Vả lại, động từ thêu của Huy Cận còn dễ hiểu hơn động từ rũa của Xuân Diệu, mà người ta có thể hiểu lầm là nguyền rủa, chửi rủa, như ở Nam Kỳ đồng bào ta thường hiểu lầm. Bởi thế nên có một nhà thơ hài hước ở Nam Kỳ nhại câu thơ của Xuân Diệu lại là: Trong vườn sắc đỏ chửi màu xanh.

Huy Cận còn hai câu thơ này thật là khó hiểu:

Ngàn năm sực tỉnh, lê thê,

Trên thành son nhạt – chiều tê cúi đầu…

Chiều tê là chiều gì? Buổi chiều ấy ra làm sao? Người ta bảo vốn Huy Cận viết: “Chiều tê tái sầu”. Xuân Diệu cho viết thế thì rõ ràng quá nên chữa lại “chiều tê cúi đầu” (thuật theo lời Hoài Thanh).

Tôi cũng không bảo thơ Xuân Diệu, Huy Cận thiếu hẳn nhạc điệu. Nhưng nhạc điệu của thơ hai ông, tôi thấy nó làm sao ấy! Ta chỉ thích nghe nhạc điệu ấy trong một thời thôi. Rồi thì sao ta cũng phải thích nhạc điệu của hơi thơ Đường hơn. Vì lẽ ấy mà tôi trọng cái nhạc điệu trong thơ Quách Tấn, Thái Can, Leiba, Tchya hơn nhạc điệu trong thơ hai ông”…

So với nhiều tác gia Thơ mới, thơ Huy Cận được người đương thời chào đón nồng nhiệt và thống nhất trong chiều hướng đánh giá, khẳng định, vinh danh. Về cơ bản, những điểm đặc sắc trong thế giới nghệ thuật, lối cảm, lối nghĩ, nội dung và hình thức câu thơ Huy Cận đều đã được khai thác sâu sắc. Điều này cho thấy sự đồng cảm cũng như khả năng tiếp nhận của bạn đọc và giới phê bình đương thời Thơ mới thực sự khách quan, đạt tới trình độ cao trong việc thẩm định các giá trị thơ Huy Cận.

PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn

Nguồn: Vanhocquenha.vn.

Exit mobile version