Tiếng thơ Đông Hồ quả tình chưa thật trong trẻo, độc đáo nhưng lại vang xa. Nàng Lê (Lê Tràng Kiều) trong bài phát biểu Tình và tứ của thi sĩ in trên Tiểu thuyết thứ Năm (số 8, ra ngày 24-11-1938) đã chứng dẫn bằng thơ của Tản Đà, Thanh Tịnh, Yến Lan, Vũ Trọng Can và cả Đông Hồ:

“Mãi đến nay ta vẫn chưa hiểu rõ những người đa tình dễ trở nên thi sĩ, hay thi sĩ dễ trở nên đa tình. Nhưng nếu chỉ đa tình mà cũng là thi sĩ thì cả một lớp thanh niên ở mọi thời đại đều đã là thi sĩ cả? Và nếu chỉ là thi sĩ mới trở nên đa tình thì đời này chẳng nhẽ ít khách đa tình ư?

Có điều tôi nhận thấy đám thi sĩ họ có cách kêu gào những điều họ muốn, những điều họ nghĩ. Không những thế, có khi họ nghĩ hộ cả cho người khác nữa. Vì thế có nhiều người ôm ấp thờ phụng thầm một thi sĩ trong óc cũng chẳng có gì lạ. Vì chắc hẳn thi sĩ đó một khi đã tả rõ những thổn thức, thiếu thốn, xót thương hoặc băn khoăn của họ. Ở ái tình, thi sĩ đã khóc hộ ta, và kể lại những băn khoăn của ta với người khác (…).

Chẳng như thi sĩ Đông Hồ lúc nào cũng sụt sùi:

Mai ơi, Mai có nhớ anh không?

Ta nhớ Mai em não tấm lòng.

Ta nhớ Mai em ta nhớ lắm,

Mai ơi, Mai có nhớ ta không?

Nhớ, không nhớ, hay nhớ lắm, đó là chuyện khác, các thi gia hãy khóc hộ người sương phụ trong đêm lạnh này mà rỗng không tình ái“…

Nhà phê bình Trần Thanh Mại khi viết truyện ký Hàn Mặc Tử (Huế, 1941) cũng có ý nhắc nhớ tới hiện tượng Đông Hồ đã mau chóng từ bỏ lối cảm lối nghĩ xưa cũ, hóa thân và đam mê nhập cuộc làng Thơ mới: “Ở tận góc trời Nam, ông Đông Hồ Lâm Tấn Phác, không cưỡng nổi với phong trào mới, cũng đành bỏ hồ, bỏ động của mình mà về nhập ngũ vào đạo binh cách mệnh”…

Trong bài mở đầu Một thời đại trong thi ca ở bộ sách tổng thành Thi nhân Việt Nam (Nguyễn Đức Phiên xuất bản, Huế, 1942), Hoài Thanh – Hoài Chân nhận diện Đông Hồ trong toàn cảnh nền thơ đương thời:

“Chung quanh ngôi sao Thế Lữ châu tuần bao nhiêu hành tinh có tên và không tên, hầu hết các thi sĩ lớn nhỏ hồi bấy giờ (…). Cả những vì sao vốn ở một trời khác: Vân Đài, Đông Hồ, Mộng Tuyết, cũng ghé về châu tuần một lúc…

… Thế mà có người say theo thì nàng (nàng thơ cổ – NHS thêm) lại chẳng mặn mà chi, như hai thầy trò Đông Hồ, Mộng Tuyết. Đến nỗi một buổi sáng kia, hai thầy trò, chán nản, bỏ đi tìm duyên mới. Nhưng Đông Hồ, Mộng Tuyết còn may mắn hơn nhiều người khác. Những người này cố ý bưng tai cho đừng nghe thấy tiếng gọi phương xa. Họ quyết giữ trọn nghĩa thủy chung với nàng thơ cũ. Nhưng họ đã bị ruồng rẫy mà không hay. Có phải Nguyễn Giang cũng ở trong bọn những người xấu số ấy?…

… Ngoài Lưu Trọng Lư, Phan Văn Dật, Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Bính, Nguyễn Đình Thư, Vũ Hoàng Chương, trong dòng Việt cơ hồ không còn ai. Hoặc cũng có thể tìm thấy ở đây: Đông Hồ, Nguyễn Xuân Huy, Thúc Tề, Nguyễn Vỹ (trong bài Gửi Nguyễn Vỹ), T.T.Kh., Hằng Phương, Mộng Huyền, Trần Huyền Trân. Nhưng không lấy gì làm rõ lắm…”

Thế rồi hai ông tuyển bốn bài đều từ tập Cô gái xuân vào Thi nhân Việt Nam (tương đương với số bài của Tế Hanh, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, J. Leiba, Vũ Hoàng Chương) và đi sâu phân tích đặc điểm thơ Đông Hồ:

“Hoàn cầu dễ ít có thứ tiếng được âu yếm, nâng niu như tiếng Nam. Âu cũng vì tiếng Nam đương ở trong cảnh khốn cùng, đương bị nhiều người rẻ rúng. Thói thường con nhà nghèo vẫn thương yêu cha mẹ hơn con nhà sang trọng.

Nhưng yêu quốc văn mà đến như Đông Hồ kể cũng ít. Thất học từ năm mười lăm, mười sáu; từ đó người chỉ chuyên học quốc văn, viết quốc văn, rồi mở trường chuyên dạy quốc văn. Cả những lúc người đai cơm bầu nước cùng học trò đi chơi các vùng thắng cảnh đất Phương thành, các đảo dữ miền duyên hải, tôi tưởng cũng chỉ vì quốc văn: người đi tìm cảm hứng vậy.

Khốn nỗi, người ra đời vào lúc văn học nước nhà đương hồi tàn tạ. Vốn tính hiền lành, không đủ táo bạo để gây nên giữa làng văn một cuộc biến động cần phải có, lúc đầu người chỉ cam tâm hiến mình cho những lề lối xưa ràng buộc. Và người cũng không hề lấy thế làm bứt rứt khó chịu, chưa bao giờ người có ý muốn thoát ly.

Mặc dầu, sự tình cờ đã một đôi lần đưa người ra ngoài khuôn sáo. Trong tập Thơ Đông Hồ, giữa bao nhiêu câu văn trơn tru mà tầm thường, trống rỗng, đột nhiên ta gặp đôi lời dường như trong ấy ẩn náu một linh hồn. Như những lời thuật hoài sau khi nàng Linh Phượng đã thành người thiên cổ:

Mối sầu khôn dãi cùng trời đất;

Chén rượu đành khuây với nước non.

Cùng những lời nhớ bạn, hoặc thật thà:

Khi biệt dễ dàng, khi gặp khó;

Chốn vui ai nhớ chốn sầu chi.

hoặc kín đáo:

Cái oanh đâu bỗng ngoài hiên gọi:

Đã hai lần rồi xuân vắng mai.

(“Mai” cũng là tên người yêu. Xem bài Nhớ Mai trong Cô gái xuân).

Với nỗi thắc mắc ấy, với nỗi buồn man mác ấy, Đông Hồ đã đi xa trường thơ Nam phong nhiều lắm.

Nhưng trong tập Thơ Đông Hồ, lạ nhất là bài Tuổi xuân, người ta có thể tưởng nó đã ở đâu lạc tới. Đến khi tác giả đưa in lại vào tập Cô gái xuân ta mới thấy nó tìm được hoàn cảnh tự nhiên của nó. Bởi vì trong bài Tuổi xuân có cái bồng bột, cái trịnh trọng trước tình yêu mà cả thế hệ trước đây không từng biết: họ quen xem người đàn bà như một thứ đồ chơi.

Đông Hồ vẫn là người của thế hệ bây giờ vậy. Cho nên phong trào thơ mới vừa nổi lên là người nhận ngay được con đường của mình. Với phong trào thơ mới tưởng không có sự đắc thắng nào vẻ vang hơn.

Từ nay, Đông Hồ sẽ chỉ ca tình yêu và tuổi trẻ. Ngòi bút của thi nhân riêng âu yếm những nỗi lòng của người thiếu nữ, khi bình yên lặng lẽ, khi phơi phới yêu đương. Cô gái xuân của Đông Hồ thỏ thẻ những lời đến dễ thương, những lời tuồng như lả lơi mà vẫn trong sạch. Ta thấy trong lời nàng cái êm dịu, cái mơn trớn, vuốt ve của tình ái. Nghe nàng nói lòng nào không xiêu? Nhất là khi nàng kể cảnh ái ân trên bãi biển ta khó có thể không cùng nàng tơ tưởng đến những cảnh ấy. Đông Hồ là người thứ nhất đã đưa vào thi ca Việt Nam cái vị bát ngát của tình yêu dưới trăng thanh, trong tiếng sóng.

Ai cũng thấy Thơ Đông Hồ và Cô gái xuân khác nhau xa. Tuy vậy, nếu trong Thơ Đông Hồ ta đã thấy khơi nguồn thơ Cô gái xuân thì trong Cô gái xuân vẫn còn lai láng cái buồn những vần thơ cũ”…

Vào đúng năm 1942 này, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã có bài phác thảo chân dung Lâm Tân Phác (Hiệu Đông Hồ, tự Trác Chi) trong sách Nhà văn hiện đại (Quyển nhất. NXB Tân dân, H,. 1942), trong đó dẫn giải và phân tích chi tiết sắc thái thơ Đông Hồ:

… “Gần đây, trong Nam, số thi nhân mỗi ngày một ít, nên khi nói đến thơ Nam Kỳ, ai cũng phải nhớ ngay đến thi sĩ Đông Hồ, người đã viết mấy bài có giá trị trong tạp chí Nam Phong. Cách đây hai mươi năm, Đông Hồ có đăng nhiều bài thơ trong tạp chí này, mà bài xuất sắc hơn cả, làm cho ông nổi tiếng. Là bài lệ ký: Linh Phượng (Nam Phong, số 128 – Avril 1928), bài khóc vợ, mà Thượng Chi đã viết mấy lời giới thiệu rất màu mè (…).

… Đông Hồ vốn là một thi sĩ giàu tình cảm nên văn bài Linh Phượng của ông là một thứ văn đẽo gọt, lời nhiều hơn ý, lời tràn lan mà ý quanh co, như không bao giờ hết…

… Trong tập lệ ký có đăng nhiều thơ và câu đối, thơ khóc người vợ hiền quá cố, thơ phúng vợ bạn, câu đối thờ, câu đối viếng, nhưng chỉ có bài thơ sau này của Đông Hồ là hay hơn cả:

Chăn gối cùng nhau những ấm êm,

Bỗng làm ngọc nát, bỗng châu chìm.

Đầm đìa giọt thảm khăn hồng thấm,

Lạnh lẽo đêm xuân giấc mộng tìm.

Hình dạng mơ màng khi thức ngủ,

Tiếng hơi quanh quẩn nếp y xiêm.

Bảy năm vui khổ, nghìn năm biệt,

Sớm gió, chiều mưa lắm nỗi niềm.

(Nam Phong, số 128, trang 357; hay Thơ Đông Hồ, trang 27)

Toàn bài, câu nào cũng được; nhận mấy chữ “Bỗng châu chìm”, ở câu hai, mà hạ được bốn câu hay tuyệt “Lạnh lẽo đêm xuân giấc mộng tìm…”; âm điệu trầm, gây nên một cảm tưởng thật buồn. Hai câu kết đủ tả những ngày xum họp ngắn ngủi, nỗi phân ly không hạn của đôi vợ chồng và những mối ưu sầu của người cô độc. Nhưng có biết rõ cảnh “cô độc” ấy, mới biết câu thơ là hay. Hãy nghe Đông Hồ than thân trong tập lệ ký: “Buồn vì nàng mất đã đành, lại buồn vì cái tình cảnh cô độc, người ta năm anh bảy em, khi thiệt mất một đôi người cũng còn khả thủ. Người ta mất bên chồng còn được bên vợ, chứ đến mình đây thực chẳng được bên nào cả. Bên mình thế này thì đã cô độc lắm rồi, bên nàng lại cô độc lắm nữa. Cũng mồ côi cha mẹ từ thủa bé, ở với bà nội, cũng không có anh em trai. Duyên trời xui nên, nước bèo gặp gỡ, thường ngày đã phải ngồi nhìn nhau mà khóc” (Nam Phong, số 128, trang 355).

Nhưng muốn biết bài thơ của một thi gia, cần phải đọc cả tập thơ, mới có thể xét đoán được.

Tập Thơ Đông Hồ mà tôi có dưới mắt đây là tập thơ xuất bản năm 1932, trong có nhiều bài đã đăng ở Nam Phong Tạp chí.

Phần nhiều thơ của Đông Hồ kém phần đặc sắc nếu đem so với thơ của những thi gia Nam Kỳ như Phan Văn Trị, Tôn Thọ Tường. Giọng thơ Đông Hồ chẳng khác nào giọng những thơ của người Bắc đăng trong mục “Văn uyển” của tạp chí Nam Phong hồi xưa, nghĩa là không có cái gì hỏng mà cũng không có cái gì hay ho lắm.

Có rất nhiều bài na ná như bài này:

Nhớ người Tân Ba

Bóng núi tờ mờ tối,

Nước hồ bát ngát xa.

Lòng người nhớ nước chảy,

Gởi đến tận Tân Ba.

(Thơ Đông Hồ, trang 2)

Ngoài cái nhẹ nhàng, thanh nhã ra, không có cái gì làm cho người đọc cảm động.

Bài Tuổi xuân cũng có mấy câu đi một hơi dễ dàng như thế:

Bên rừng chiếc lá rơi,

Mặt nước cánh hoa trôi;

Chòm mây bay tản nát,

Đàn nhạn rẽ phương trời.

Trông cảnh em ngậm ngùi,

Nhìn em, anh thở dài,

Cảm nghĩ chuyện dời đổi,

Giọt lệ bắt đầu rơi. . . .

Nhưng nếu đọc toàn bài, người ta thấy nhiều ý trùng điệp, ở đoạn sau có nhiều câu cùng một nghĩa như nhau, thí dụ những câu “Ly biệt có ngờ đâu”, “Cảm nghĩ chuyện rời đổi”, “Trăm nghìn cảnh đổi rời”, đều chung một nghĩa chia rẽ cả.

Bài Tục huyền cảm tác cũng thiết tha, được nhiều câu trang nhã, như mấy câu:

Chim Linh Phượng một bay chẳng lại,

Nhà Độc Thê mực vẩy lệ sầu.

Gió mưa hai độ xuân thu,

Khắp trông non nước toàn màu thê lương.

Nhưng nếu đem so bài này với bài “Tái tiếu sầu ngâm” của Tương Phố thì không được bi thiết và du dương bằng.

Ngoài mấy bài trên này, phần nhiều thơ của Đông Hồ đều có những chữ sáo, những ý cổ. Đã thế, ông lại hay ngâm vịnh về những cảnh vật mà nhiều người đã từng ngâm vịnh nhiều lần. Như thơ xuân của ông thật là nhiều, mà chẳng mấy bài không nói đến Đông Quân. Bài Cảnh xuân, có câu:

Khéo khôn thử hỏi từ đâu lại?

– Rằng bởi Đông hoàng tay điểm trang.

(Thơ Đông Hồ, trang 13)

Bài Ngọc nhân thập vịnh (Tưới vườn), có câu:

Vườn hồng đã tỏ mặt Đông quân.

(Thơ Đông Hồ, trang 17)

Bài Chơi xuân có câu:

Ấy ai tài tử giai nhân,

Lòng xuân riêng với Đông quân hẹn hò.

(Thơ Đông Hồ, trang 50)

Đến những chữ sáo và ý cổ thì thật nhiều như những câu:

Muôn hồng nghìn tía vẻ tươi cười.

(Bài Chơi xuân, trang 8)

Giai nhân tài tử hội tao phùng,

Phong nhã văn chương mối cảm chung. . .

(Bài Ngọc Nhân thập vịnh, trang 18)

Đến những câu trong bài Chơi núi Đại Tô Châu (trang 23) thì thật chỉ cốt cho cân đối, chứ không còn ý nghĩa gì:

Cỏ hoa êm lặng không màu tục,

Cây đá thiên nhiên khác vẻ trần.

Hai chữ “êm lặng” cố nhiên không đủ cho người ta hiểu là những cỏ hoa ở đó “không màu tục”, và hai chữ “thiên nhiên” cũng không thể chỉ cho người ta thấy rằng “cây đá” ở đó “khác vẻ trần” như thế nào? Người đọc thật khó lòng mà tưởng tượng được.

Rồi trong bài Cảnh học đường (trang 42), có những câu không còn phải là thơ nữa.

Thí dụ như câu:

“Trong ngoài bốn mặt đều hoàn toàn”.

Và câu:

“Sắc đẹp hương thơm, đủ mọi chiều”.

Trái lại, Đông Hồ dịch thơ lại khéo lắm. Bài Cái bình vỡ (trang 46) dịch theo bài La vese brisé của Sully Prudhomme, vừa sát nghĩa, vừa có nhiều câu tài tình.

Như mấy câu chữ pháp:

Souvent aussi la main qu’on aime,

Effleurant le cour, le meurtrit;

Puis le coeur sefend de lui même,

La fleur de son amour périt;

Toujors intact aux yeux du monde,

Il sent croitre et pleurer tout bas;

Sa blessure fine et profonde:

Il est brise, n’y touchez pas.

Đông Hồ dịch là:

Thường tình người ta có khác chi,

Phải tay người yêu chạm đến khi.

Chạm đến quả tim tê tái vỡ,

Hoạ ái tình kia cũng héo đi.

Trông vẫn còn nguyên ai biết đâu,

Vết thương kia nhỏ nhưng mà sâu.

Lệ lòng mấy giọt âm thầm rỏ,

Bình vỡ, ai ơi, chớ động vào!

Dịch như vậy không phải cái lối gò từng chữ, bó từng câu mà rất thoát nghĩa. Đọc riêng bản dịch không ai biết là thơ dịch.

Trong tập Cô gái xuân (xuất bản năm 1935), giọng thơ ông đã đổi mới ít nhiều. Tuy thể thơ vẫn còn là ngũ ngôn hay thất ngôn, nhưng ý trong nhiều bài thật có khác những bài trong tập Thơ Đông Hồ. Đọc bài Bốn cái hôn trong tập Cô gái xuân, người ta thấy ông đã chịu ảnh hưởng ít nhiều thơ mới.

Hãy đọc những câu êm ái sau này trong hai bài thơ ấy:

Mất mẹ, em mất tình âu yếm,

Lạnh lùng, em thiếu hơi hôn ấm,

Đứng tựa bên vườn, em ngẩn ngơ,

Trông nước, trông mây, em đợi chờ. . .

Chợt thấy cha em về trước sân,

Áo quần lấm láp vết phong trần,

Chạy ra mừng rỡ đưa tay đón,

Cúi xuống mái đầu, cha em hôn.

Từ hôm em được cha em hôn,

Đầm ấm lòng em bớt nỗi buồn.

Nhưng cha em mải bận xuôi ngược,

Rày đó mai đây việc bán buôn. . .

Sự khao khát tình thương yêu của một thiếu nữ ngây thơ diễn ra được lời thơ như thế cũng đã khéo lắm. Nhưng đến cái tình yêu của đôi trai gái diễn ra một cách nồng nàn mà không lẩn vào những ý trai lơ, dâm đãng, mới thật tài tình. Hãy nghe những câu tình tứ sau này cũng trong bài Bốn cái hôn:

…Nay em đang giữa cảnh đêm xuân,

Gió trăng tình tứ đêm thanh tân.

Trước vùng trời biển cảnh lồng lộng,

Cùng anh trao đổi tình ái ân.

Khoác tay anh đi trên bãi cát,

Cát bãi, trăng soi màu trắng mát.

Nghiêng đầu lơi lả tựa vai anh,

Lặng nghe sóng bãi đưa rào rạt.

Nước mây êm ái bóng trăng sao,

Say sưa em nhìn lên trời cao,

Buông khúc đàn lòng theo nhịp gió,

Giờ phút thần tiên, hồn phiêu dao.

Một hơi thở mát qua, dịu dàng,

Như cơn gió biển thoảng bay ngang,

Rồi luồng điện ấm chạm trên má:

Ân ái môi anh kề nhẹ nhàng…

Lời thơ thật là nhẹ nhàng, đi một hơi êm như ru, để ru cái tình yêu của đôi trai gái giữa một đêm trăng trên bãi cát, theo với nhịp gió thoang thoảng, tiếng sóng ào ào, dường như tình yêu của loài người cũng hoà cùng cảnh êm đềm và bát ngát của vũ trụ.

Đông Hồ đã chịu ảnh hưởng thơ mới về đường tả thực, nhưng ông còn giữ được cái giọng thanh tao của lối thơ cũ. Đó cũng là một điều đặc sắc vậy (…).

… Đông Hồ có một bài thơ vịnh Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích, làm thể trường thiên cổ thi, lời cứng cáp, khác hẳn những bài tứ tuyệt uỷ mị trong tập Thơ Đông Hồ. Bài thơ ấy như sau này:

Chẳng đội trời Thanh Mãn

Tìm qua đất Việt bang;

Triều đình riêng một góc,

Trung hiếu ven đôi đường;

Trúc thành xây vũ lược,

Anh các dựng văn chương;

Tuy chửa là cô quả,

Mà cũng đã bá vương;

Bắc phương khi vỡ lở,

Nam Hải lúc kinh hoàng;

Giang hồ lòng lang miếu,

Hãn mặc thân chiến tràng;

Đất trời đương gió bụi,

Sự nghiệp đã tang thương;

Anh hùng lo thành bại,

Tuẫn tiết còn hiển vang;

Non bình mây khói giận,

Hồ Đông trăng nước gương;

Tâm sự sau xưa đất,

Nghìn thu một tấc vàng.

(Nam Phong, số 143 – trang 343)

Những bài thơ hay của Đông Hồ, đều có cái đặc tính là trang nhã. Bài thơ vịnh trên này lại thêm được một điều nữa là trang nghiêm. Nhưng từ khi có phong trào thơ mới thì thơ ông ngoài Bắc không còn mấy người đọc nữa, tuy ông cũng hưởng ứng phong trào mà xuất bản tập Cô gái xuân. Người ta chỉ còn nhớ ông là tác giả tập lệ ký Linh Phượng đăng trong Nam Phong Tạp chí hồi xưa, cùng một năm với bài Giọt lệ thu của Tương Phố, người khóc vợ, người khóc chồng, mỗi bên riêng có một giọng ngậm ngùi, thảm thiết”…

Đông Hồ chưa phải là một hiện tượng đột xuất trong làng Thơ mới nhưng người đương thời khắp trong Nam ngoài Bắc đã tỏ lòng tri ân, trân trọng ghi nhận một tiếng thơ bình dị, chan chứa nghĩa tình. Con đường đi từ Thơ Đông Hồ đến Cô gái xuân đã được giới phê bình đương thời đón nhận, khẳng định như một bước tiến, chứng tỏ khả năng tự vận động, đổi mới và hòa nhập của Đông Hồ với phong trào Thơ mới 1932-1945, góp phần xây dựng và nối kết vùng văn học cực Tây Nam Bộ với nền văn học Việt Nam dân tộc và hiện đại.

PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn

Nguồn: Vanhocquenha.vn

Exit mobile version