Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, nhà thơ Xuân Diệu đề xuất thuyết “Chân, chân, chân! Thật, thật, thật!”. Một lần, Xuân Diệu bảo tôi: “Anh Chế Lan Viên rất phản đối thuyết này!”…
1. Thuyết “Chân, chân, chân…” được Xuân Diệu đề cập lần đầu ở tiểu luận “Sự giản dị và phong phú trong thơ” (22-11-1967), sau khi đăng báo đã in vào quyển “Công việc làm thơ”, phê bình và tiểu luận của Xuân Diệu, Nhà xuất bản Văn học, 1984. Nhà thơ viết:
“Phong cách lớn, bút pháp lớn, theo ý tôi, trước hết lấy chân thật làm nền tảng, thơ phải:
Chân, chân, chân!
Thật, thật, thật!
Thật là sự có thật ở trong cuộc đời, ở trong sự sống; chân là tính có thật ở trong lòng người, tâm hồn người…”.
Nhà thơ Xuân Diệu
Bàn luận cho thấu đáo về thuyết này, chắc phải cần nhiều thì giờ. Nhưng có thể nói, một trong những điểm cốt lõi mà Xuân Diệu muốn ở đây là: phải đưa hiện thực đời sống vào thơ càng nhiều càng tốt, càng cụ thể càng hay.
Ở mặt tích cực của nó, chủ trương này rất có tác dụng. Chẳng hạn, dân gian ta có thành ngữ Sống dai như đỉa; khi nói về cảnh khô hạn trên một cánh đồng, nhà thơ Xuân Diệu viết trong bài “Con kênh, con máng, con mương”:
Con đỉa vắt qua mô đất chết!
thì quả đã tạo được một ấn tượng mạnh về mức độ tai hại của hạn hán. Tuy nhiên, ở mặt trái của nó, nếu đi quá đà, sẽ dẫn đến một hiệu quả tiêu cực. Lúc ấy, thơ biến thành văn xuôi, không thấy chất thơ đâu nữa. Chẳng hạn, như những câu này, nhà thơ viết trong Bài thơ “Những đồ hộp hoa quả”:
Dưa chuột phải non xanh, cùi dày, hạt nhỏ
Không lấy cong queo, xây xát, bầm dập, sâu thối, vàng úa, ong châm.
Một hộp dưa chuột: nước, cái bao nhiêu;
Màu quả phải ánh vàng, không được quả này đen, quả kia trắng;
Trong một phân khối, chỉ cho phép còn mấy vi trùng!
Không được một sợi tóc rơi vào, một hạt cát sẽ thành đá nặng.
Nhà thơ Chế Lan Viên chắc phản đối cái Chân, chân, chân! Thật, thật, thật kiểu này chăng? Nếu thế thì theo tôi, Chế Lan Viên đã đúng!
2. Nhà thơ Thanh Tịnh (1911-1988) có lần bảo tôi: “Mình không nhớ một nhà văn nào ở một nước Bắc Âu nói câu này thật hay, chúng ta ai cũng biết mà không nói được: Trẻ con đi từng đoàn, thanh niên đi từng đôi, người già đi một mình!”.
Nhà thơ Thanh Tịnh.
Nhà thơ Thanh Tịnh vốn là người ưa suy nghĩ, không chịu dừng lại ở một câu, một ý có sẵn. Về sau, ông lại tìm ra cách nói của mình để diễn đạt ý của câu trên bằng ba chữ đ (tuy không được hay lắm):
Trẻ con đi đoàn, thanh niên đi đôi, người già đi độc!
3. Quyển sách tuyệt hay “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh – Hoài Chân thỉnh thoảng có những chuyện… ngoại lệ lý thú. Chẳng hạn, sau khi viết về nhà thơ T.T.KH, tác giả tâm sự:
“Viết đến đây tôi đã định khép cửa lại, dẫu có thiên tài đến gõ cũng không mở. Thế mà lại phải mở cửa để đón một nhà thơ nữa: Trần Huyền Trân…”.
Nhà văn Hoài Thanh và tác phẩm “Thi nhân Việt Nam”
Một trường hợp ngoại lệ đặc biệt hơn, khác tất cả các nhà thơ khác trong sách, là… tung tích nhà thơ Đoàn Văn Cừ, mà tác giả tìm đến mấy lần.
– Lần thứ nhất, khi những dòng viết về nhà thơ này mới đăng báo, chưa đưa vào quyển sách nói trên, tác giả đã… thông báo trước cho người đọc về Đoàn Văn Cừ:
“Cứ mỗi lúc xuân về người lại gửi trên báo một chuỗi cười ngũ sắc. Tiếng cười ta còn nghe văng vẳng thì người đã biến đâu rồi và ta đành chờ mùa xuân khác. Thế rồi báo chết, tăm tích người cũng mất. Cho đến hôm nay, viết mấy lời giới thiệu thơ Đoàn Văn Cừ, tôi vẫn chưa biết gì thêm về con người ấy”.
– Lần thứ hai, lúc đưa lời giới thiệu và chọn thơ Đoàn Văn Cừ vào “Thi nhân Việt Nam”… tác giả lại viết:
“Khi quyển sách này đưa in chúng tôi vẫn chưa biết gì thêm về Ô. Đoàn Văn Cừ tuy đã hỏi rất nhiều người. Vậy xin mạn phép ông trích mấy bài thơ. Ông ở đâu, làm ơn cho chúng tôi biết”.
– Lần thứ ba, lúc quyển sách tái bản, tác giả lại chú thích:
“Vẫn chưa biết Ô. Đoàn Văn Cừ ở đâu”!
Kể cũng lạ, trong khi tất cả các nhà thơ khác đều được tác giả “Thi nhân Việt Nam”… hoặc gặp trực tiếp, hoặc trao đổi qua thư từ.
Về sau, tôi đem chuyện này hỏi chính nhà thơ Đoàn Văn Cừ. Trong thư đề “Một ngày giữa Xuân Mậu Dần, 1998”, nhà thơ trả lời: cả mấy lần “tôi đều không biết về tin đó. Bởi lẽ rất dễ hiểu, là tôi ở quê xa, rất hẻo lánh, có bao giờ được đọc báo từ Hà Nội”!
Tôi quên mất, không hỏi ông hoặc hỏi nhà phê bình Hoài Thanh xem, về sau tác giả “Thi nhân Việt Nam”… biết địa chỉ nhà thơ Đoàn Văn Cừ, hoặc gặp nhà thơ lần đầu vào dịp nào, ở đâu.
4. Duy Khán (1934-1993) là nhà thơ, nhưng tác phẩm xuất sắc hơn cả lại là một tác phẩm văn xuôi! Anh vào bộ đội từ thời kháng chiến chống Pháp, và thuộc các nhà văn đi nhiều nhất, trong khắp nước đã đành, mà ở cả chiến trường Lào, Campuchia nữa. Làm báo, viết văn là niềm say mê của anh từ lâu. Có lần, anh bảo tôi: Hồi mới viết, mình chỉ mong được làm lính gác cổng một tờ báo đã sung sướng lắm!
Nhà thơ Duy Khán.
Trong đời văn của anh, Duy Khán có hai tập thơ và một tập văn xuôi. Nhưng người đọc ít nhớ hai tập thơ Duy Khán, mà đặc biệt thích thú tập “những truyện nhỏ” mang tên “Tuổi thơ im lặng”, vì ở đó anh đã làm sống lại cái làng quê bé nhỏ của mình hơn nửa thế kỷ trước cùng với những con người lam lũ mà nhân hậu, trong sáng…
Trong lời “Nói với các con tôi về cuốn sách này” in ở đầu “Tuổi thơ im lặng”, Duy Khán gọi đây là “đứa con ngoài kế hoạch” của mình, lại dự đoán (rất đúng) rằng nó “rất có thể thông minh, tài giỏi, lớn lao hơn những đứa con nằm trong kế hoạch được đón đỡ, được nuôi nấng hậu hĩ”. Quả thật, quyển sách mỏng mảnh có 130 trang này được in nhiều lần, nó đem lại cho Duy Khán giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987, và chỉ có nó, anh mới được giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2011…
Tôi biết, Duy Khán hay rượu, nhưng chỉ uống được một ít là đã say. Và quanh chuyện say rượu của Duy Khán, có khối giai thoại. Một trong số đó kể rằng: Có tối đi phố uống rượu, trên đường về, Duy Khán say quá, vạ vật bên phố. Người đi đường muốn giúp, hỏi anh ở đâu, ở phố nào để đưa về. Anh trả lời: “Tôi ở phố… Duy Khán”! (bấy giờ gia đình Duy Khán ở Hải Phòng, anh làm việc và ở nhà sau của tạp chí Văn nghệ quân đội, số 4 Lý Nam Đế, Hà Nội). Chắc lúc say, anh quên cả cái tên phố khá nổi tiếng mình đang ở là Lý Nam Đế!
Theo Hồng Diệu – Văn nghệ công an