Từ chuyện đời ở Myanmar

Lần đầu đến Yangon, thành phố lớn nhất, vốn là thủ đô của Myanmar, tôi không khỏi ngạc nhiên về quy hoạch và cơ sở hạ tầng của thành phố này: Thoáng đãng, nhiều cây xanh và còn có cả rừng. Rừng trong thành phố, những nếp nhà xinh xắn nằm khuất giữa vườn cây xanh quanh năm. Đường phố sạch, bốn đến sáu làn xe chạy. Người dân có ý thức tự trọng cao, luôn tôn trọng người khác và chấp hành nghiêm luật giao thông. Từ trẻ em đến người lớn, ai ai cũng tỏ ra thân thiện với du khách nước ngoài. Người Myanmar có phong tục nhà nào cũng nấu nước để trước cửa dành cho khách đi đường. Những tòa nhà cũ kỹ, những chung cư khá lâu năm rồi, nhưng rất sạch. Không đánh lộn, không chửi thề, không phóng uế bừa bãi, không xả rác vô tội vạ, và đặc biệt là không có nạn trộm cắp… Tôi đã gặp những người nghèo nhất, dưới đáy xã hội, trẻ đánh giày, bán báo, bán hàng dạo… nhưng họ thật hiền lành, tự trọng, không bao giờ lừa đảo, không bao giờ kiếm tiền bất lương.

Diện tích tự nhiên Myanmar chỉ lớn gấp hai Việt Nam, nhưng diện tích đất canh tác thì lớn gấp năm lần Việt Nam. Myanmar có nhiều đá quý, hồng ngọc, trữ lượng thủy điện rất lớn. Người dân Myanmar hiền lành, thân thiện, trẻ con dù phải cực khổ kiếm sống nhưng ngoan ngoãn. Chúng tôi qua phà, vượt sông Yangon để đi thăm một làng ngoại ô, làng Dala. Chỉ cách Yangon một con sông, nhưng Dala là một thế giới hoàn toàn khác. Trẻ em ít được đến trường, người dân thiếu ăn, thiếu nước sạch và không có thuốc khi ốm đau… Nhà cửa thật sự nhếch nhác, giống hệt khu ổ chuột ở quận Tư và Thủ Thiêm của Sài Gòn trước năm 1985. Thế nhưng, trong làng này vẫn không hề có lưu manh, trộm cắp, cướp giật, không đánh lộn, không chửi thề… Trẻ em không lâm vào quá trình lưu manh hóa!

Phép mầu nào giúp cho con người, nhất là trẻ em luôn giữ mình lương thiện?

Tôi suy nghĩ rất nhiều về chuyện này. Tôi đã tìm gặp, hỏi chuyện khá nhiều người, từ giới lao động đến giới trí thức, doanh nhân, từ học sinh tiểu học, trung học đến sinh viên đại học… Và, tôi nghĩ rằng, phải chăng Đạo Phật phái Tiểu thừa là quốc đạo của đất nước này đã giúp cho con người luôn lương thiện dù đời sống của phần lớn cư dân (tổng số 59,1 triệu người) là nghèo khổ?

Trong các làng Myanmar truyền thống, chùa chiền là trung tâm của đời sống văn hóa, là trường học của trẻ thơ. Nhà chùa dạy chữ (các môn học cấp tiểu học), đồng thời, và chủ yếu là dạy làm người, rèn luyện nhân cách cho thế hệ tương lai. Sống trung thực, không tham lam; giàu lòng nhân ái, biết thương kẻ khác, không độc địa… là những bài học thấm vào máu trẻ thơ. Các nhà sư được sùng kính và người dân luôn quỳ trước mặt để tỏ lòng tôn trọng họ. Lễ nhập tu được gọi là shinbyu là lễ đánh dấu sự trưởng thành quan trọng nhất của một chú bé khi vào chùa tu. Các cô bé cũng có lễ xuyên lỗ tai khi đến tuổi trưởng thành. Sau thời gian vào tu ở chùa, thấm nhuần giáo lý của Đức Phật, các em ra đời với tâm hồn, trái tim giàu nhân nghĩa, thánh thiện.

Người Anh để lại ảnh hưởng khá sâu sắc trong văn hóa Myanmar, tương tự như văn hóa Pháp tại Việt Nam. Hệ thống giáo dục Myanmar theo khuôn mẫu hệ thống giáo dục Anh Quốc. Cấp tiểu học đa phần do Chùa đảm nhiệm. Hệ thống Trường trung học, cao đẳng và đại học do Nhà nước quản lý, theo đường hướng giáo dục tiên tiến của Anh Quốc. Đại học Tổng hợp Yangon – theo mô hình của Đại học Cambridge Anh Quốc- vào những năm 1950-1962 được đánh giá là một trong những trường đại học tốt nhất châu á. Những dấu ấn của kiến trúc, hạ tầng cơ sở thời thuộc địa Anh tại các thành phố lớn như Yangon hiển hiện rất rõ nét.

Ngày 22 tháng 10 năm 2010, Myanmar đổi quốc hiệu từ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Liên bang Myanmar thành Cộng hòa Liên bang Myanmar, thay đổi quốc kỳ và quốc ca. Sự kiện này diễn ra trước 17 ngày có cuộc bầu cử sau 20 năm kể từ lần bầu cử gần nhất năm 1990. Đầu tháng 2-2011, Quốc hội Myanmar đã bầu Thủ tướng mãn nhiệm – là tướng lãnh – ông Thein Sein, làm tổng thống dân sự đầu tiên, sau gần 50 năm cầm quyền của quân đội. Một làn gió mới mang khát vọng dân chủ đã thổi trên đất nước.

Nghĩ về giới trẻ Việt Nam

Thời học phổ thông, tôi là học sinh giỏi, hai năm liền được Bác Hồ khen thưởng. Thuở ấy, trẻ em Việt Nam nghèo, đói ăn, thiếu thốn đủ thứ, nhưng ham học, ngoan, hiền và… không bao giờ nói tục, chửi thề, gây lộn. Trong nhà sống nết na một thì ra ngoài đường nết na gấp mười.

Từ năm 1954 đến năm 2012, là 58 năm đã trôi qua, trẻ em ở phía Bắc được sống dưới mái trường Xã hội Chủ nghĩa. Trẻ em được học năm điều Bác Hồ dạy, được Đội, Đoàn kèm cặp, được… đủ thứ!

Thế hiện nay thì sao? Rất nhiều vụ trọng án cướp của giết người do thủ phạm trong tuổi vị thành niên gây ra. Ngay cả ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, trẻ em chán học, bỏ học, càn quấy, rất tích cực trong cao trào lưu manh hóa. ở nhà giả vờ ngoan ngoãn, ra đường thì trở thành thành viên xã hội đen.

Vì sao vậy?

Từ năm 1985 đến nay, nhờ điều kiện công các thuận lợi, mỗi năm tôi đi thực tế ở các tỉnh phía Bắc tối thiểu hai, ba lần. Những năm trước khi nghỉ hưu, tôi đi nhiều hơn. Từ năm 2007 đến năm 2012, bình quân mỗi năm tôi đi thực tế miền Bắc một tháng. Hiện trạng thanh thiếu niên ở các tỉnh phía Bắc nói riêng và cả nước khiến tôi nhiều đêm không ngủ được. Tôi đã viết trong tiểu thuyết Con trời để chia sẻ một điều: tại sao con em chúng ta ngày càng chán học, chán đọc sách, ngày càng sống buông thả, coi hai từ lý tưởng là vớ vẩn, coi chuyện kiếm tiền ăn chơi xả láng mới là cứu cánh. Một bộ phận trẻ em, trong đó có không ít con ông cháu cha, hư hỏng, lưu manh hóa. Vì sao?

Ai cũng biết Cụ Hồ trước đây đã từng mời ông Nguyễn Văn Huyên về nước, rồi bổ làm Bộ trưởng Giáo dục. Ông Huyên là một người tài! Rất lạ là sau năm 1954, Bộ Giáo dục bãi bỏ việc dạy tiếng Pháp, tiếng Anh trong chương trình phổ thông. Trường cấp Ba ở các thành phố lớn, mới dạy ngoại ngữ mà chỉ dạy tiếng Nga và Trung Quốc! Cùng với ngoại ngữ Anh, Pháp bị bãi bỏ là nền văn hóa, văn học phương Tây không được truyền dạy! Tiếc nhất là khi Việt Nam đã có nhiều chục năm giáo dục trẻ em theo lề lối giáo dục Pháp, nền giáo dục tiên tiến của nhân loại, thì thoắt một cái, ta bãi bỏ. Ta thực hiện nền giáo dục lấy công – nông – binh làm kim chỉ nam, lấy đấu tranh giai cấp làm động lực và là cái đích để đến! Ngoài một số đô thị lớn, ở nông thôn, đền chùa, miếu mạo, đình làng, cổng làng, Văn chỉ, Văn miếu bị phá sạch, để quét sạch tàn dư phong kiến phản động. Đức tin ngấm sâu vào máu thịt dân ta từ hàng ngàn năm phải tẩy rửa để thay thế bằng đức tin  mới… Trong khi đức tin mới, văn hoá mới đến nay vẫn chưa rõ hình hài? Trong khi đó, chúng ta xây dựng nền giáo dục lấy phổ cập làm nền tảng, lấy thành tích làm động lực. Lấy phong trào làm sức sống.

Nền giáo dục như thế tất yếu phải dẫn đến thực trạng ngày nay: Thầy là nhà kinh doanh, chữ nghĩa kiến thức là hàng hoá. Trò, sau khi nộp tiền rồi thì bằng cấp nào, học hàm học vị nào chả có… Một xã hội coi việc kiếm tiền là trên hết, tôn sùng đồng tiền, thì con người tất phải hư hỏng, nhân tài bị rẻ rúng, người lương thiện, trọng nhân cách bị cho là dở hơi, là điên. Đó là bình thường, đúng quy luật!

Đừng đơn thuần trách thanh – thiếu niên ta hư hỏng. Phải thẳng thắn, dũng cảm nhận ra nguồn cội ma đưa lối quỷ đưa đường khiến con em chúng ta thành người thì ít, thành ngợm thì nhiều! Với cơ chế chính sách hiện hành, nói chuyện cải cách giáo dục, cải cách đại học, xóa Tiến sỹ giấy, xóa bằng cấp thật mà học giả… chỉ là chuyện không tưởng… Chúng ta đã nhiều năm lừa dối nhau và tự lừa dối mình! Đã đến lúc nên gọi thẳng ra, bệnh thành tích trong giáo dục (mà ai cũng thừa nhận) thực chất là bệnh dối lừa.


Và văn học cho thiếu nhi

Từ xa xưa, người phương Đông đã truyền khẩu bài Huấn Mông ấu Học Thi. Bài thơ dạy trẻ con. Trong khoảng hai chục năm nay, người đọc sách, mê sách, nhất là sách văn học ở Việt Nam ngày càng hiếm. Ta cũng có Ngày đọc sách hẳn hoi! ấy vậy mà chả ai nói tới sách Huấn Mông ấu Học Thi hay ấu học ngũ ngôn thi (Dạy trẻ em qua thơ năm chữ), còn gọi là Ngũ tự kinh, trong đó, hai câu cuối của khổ thơ đầu tiên ca ngợi người đọc sách: Vạn nghề đều thấp hèn. Duy có nghề đọc sách là cao quý! (Vạn ban giai hạ phẩm. Duy hữu độc thư cao):

Thiên tử trọng hiền hào/ Văn chương giáo nhĩ tào/ Vạn ban giai hạ phẩm/ Duy hữu độc thư cao. Nghĩa là: Nhà vua (quốc gia) bao giờ cũng coi trọng người hiền tài hào kiệt. Việc giáo dục con người đều phải lấy từ văn chương (Tri thức và văn hóa). Chỉ có nghề đọc sách (con người có học hành nghiêm túc, có đầy đủ tri thức và văn hóa) là cao quí hơn tất cả mọi nghề khác trong xã hội.

Hay

Ấu tiểu tu cần học/ Văn chương khả lập thân/ Mãn triêu chu tử quý/ Tận thị độc thư nhân. Nghĩa: Lúc còn nhỏ phải siêng năng học hành, phải trang bị cho mình đầy đủ tri thức và văn hóa, để khi lớn có đủ khả năng lập thân xử thế. Những người ăn mặc sang trọng (áo đỏ, áo tía) ở chốn cung đình đều là kẻ đọc sách cả (người có đầy đủ tri thức, văn hóa).

Văn chương viết cho thiếu nhi là vô cùng quan trọng. Nhưng sáng tác cho thiếu nhi trong tình thế nền tảng đạo lý xuống cấp, đạo đức băng hoại, thì phải viết thế nào, theo cách nào? Tôi, người chuyên viết tiểu thuyết tâm lý xã hội hiện thực phê phán, tôi chưa một lần viết riêng cho bạn đọc nhỏ tuổi, tôi không dám nói sâu về đề tài này. Nhưng với tư cách một nhà văn, một người đam mê làm văn hóa, tôi nghi Quý anh chị đồng nghiệp chuyên viết cho thiếu nhi – ngoài những đề tài quen thuộc – cần dũng cảm hơn nữa! Hãy phanh phui những ung nhọt, ngang trái trong xã hội, để cho nhân dân ta, trong đó có giới trẻ, con em chúng ta hiểu, tin rằng quý anh chị là nhà văn, là con chim báo bão. Nếu chỉ vịn vai thiếu nhi để viết những chuyện trẻ con trong trường tiểu học, trung học, thì dù sách có bán chạy cũng chỉ như cách nói của dân quê tôi: dụ trẻ con ăn cứt gà, giựt lấy tiền ăn kẹo kéo, ăn xôi sáng của trẻ nít để làm giàu cho mình mà thôi!

Mấy lời thẳng thắn, mong được quý anh chị khuynh nhĩ thinh, bằng không thì cho gió thoảng mây bay…

(Văn nghệ số 22/2013