11 tác phẩm thơ đã xuất bản thấm đẫm chất nhân văn của Nguyễn Thị Mai, với tôi, luôn toát lên bức chân dung tâm hồn mang vẻ đẹp thuần khiết của người đàn bà Việt. Dường như tất cả những buồn vui của đời người đàn bà làm thơ này đều không ra ngoài thế giới đàn bà.
Sau cái bến thực của bổn phận và trách nhiệm, Nguyễn Thị Mai lại lặng lẽ cùng thơ làm những cuộc hành hương về bến mơ, tập trung tinh lực tạo dựng bức chân dung người đàn bà Việt đương đại. Bằng thủ pháp trữ tình hóa và dưới thứ ánh sáng mĩ học của sự dâng hiến, chị đã thổi hồn thời đại vào những phẩm chất truyền thống, làm cho chúng trở nên mới mẻ và hiện đại: Em thì tất tưởi mưu sinh/ Nuôi con bến thực nuôi mình bến mơ (Lục bát – Em và anh). Và cái bến mơ huyền ảo đã đưa người đàn bà tảo tần, lam lũ, giàu đức hi sinh trong thơ Nguyễn Thị Mai lên vị thế một thi nhân. Người đàn bà nhạt nhòa như cái bóng bên chồng con từ xa xưa, bỗng trút lốt nâu sồng để trở thành người phụ nữ của hôm nay: tự tin, tự trọng, ý thức rất cao về cái tôi của mình, một cái tôi hài hòa, cân bằng giữa mơ mộng, khát vọng và trách nhiệm, bổn phận: Cho dù bãi mật phù sa/ Mà không bên lở chẳng là dòng sông (Nhà không có bố).
Tuy nhiên, trung tâm thế giới nghệ thuật của Nguyễn Thị Mai vẫn là hình tượng người đàn bà hồn hậu, dịu dàng, đằm thắm với trái tim ấm áp ăm ắp yêu thương mang dáng vẻ cổ truyền. Thương đấng sinh thành: Cha giờ tên tuổi khắc ghi ngoài đồng (Lời thì thầm với cha); Người về mặc áo cánh nâu/ Vấn trần mái tóc ăn trầu đỏ môi (Giấc mơ gặp mẹ). Thương người chị gái:Dáng gầy như mẹ gánh gồng khi xưa. Thương đứa con chồng thiệt thòi, côi cút: Dì không mang nặng đẻ đau/ Đứt dây mà xót thương bầu bí ơi (Nói với con chồng). Thương miền quê trung du mãi mãi bám đeo cái nghèo truyền kiếp: Thương quê thương chuyến đò sang/ Gạo châu củi quế vắt ngang lở bồi. Thương người đàn bà cửu vạn đầu tắt mặt tối ở chợ đêm Long Biên: Mồ hôi, sương muối ố hoen/ Buốt lưng cửu vạn đã quen với nghề/ Đồng công năm bảy xẻ chia/ Nẻo cơm quán trọ, nẻo về nuôi con (Chợ đêm Long Biên)… Dù nói về những phận người trong cõi nhân gian, hay chỉ là những tình cảm riêng tư thì dường như bức thông điệp chị gửi đi đều tới được những vùng khuất lấp trong trái tim, đánh thức những mĩ cảm ngủ yên trong người đọc:Một nhà trắng những khăn xô/ Dải khăn em út bấy giờ chấm chân/ Bấy giờ đang cuối mùa xuân/ Hoa xoan lã chã từ sân ra vườn/ Nhà còn bơ gạo cắm hương/ Và bơ nửa thổi bát cơm trứng gà/ Gia tài lúc mẹ đi xa/ Đôi quang đứt giải, căn nhà dột mưa… (Nỗi niềm ngày giỗ mẹ); Mẹ và bà nay đã cõi hư vô/ Hạnh phúc hóa trầm, khổ đau hóa đất (Điều con chưa biết)…
Vẻ đẹp của người đàn bà trong thơ Nguyễn Thị Mai càng trở nên đương đại là nhờ nét tự chủ, ý thức cao về trách nhiệm của mình trước gia đình, trước bản thân và đặc biệt là trước Tổ quốc thân yêu. Không chỉ làm thật tốt công việc của mình, Nguyễn Thị Mai còn dám cưỡi cơn sóng dữ giữa thời điểm nóng bỏng sự kiện giàn khoan 981 để mang quê nhà đến với Trường Sa, góp phần cùng toàn dân tộc Quyết giữ chủ quyền bờ cõi nước non ta (Đêm hát về Tổ quốc). Người đàn bà Việt từng trải, lịch lãm đã phát hiện ra cái mùi thân thương rất riêng của người đàn ông Việt qua cái mùi đặc trưng lính đảo, cái mùi thiêng ngàn đời đã đánh dấu chủ quyền và hải phận nước Nam mình: Ôi cái mùi lính đảo – đặc trưng/ Mạnh mẽ, nam nhi, quyết liệt/ Mùi con trai nước Việt/ Cắm mốc chủ quyền lãnh thổ của riêng ta (X-Men lính đảo).
Ngoài những nỗ lực tự vượt lên chính mình, điều làm cho Nguyễn Thị Mai trường vốn và trường sức có lẽ là bởi hơn ai hết chị đã thấu thị được rằng muốn đi xa phải trở về. Chính sự thông tuệ và minh triết của dân gian đã nuôi dưỡng tâm hồn chị. Trong thơ Nguyễn Thị Mai chất liệu dân gian được sử dụng với một tần số rất lớn và rất linh hoạt. Khi thì ý tưởng dân gian được dùng để cấu tứ cho một bài thơ (Gửi em bán muối, Bờm ơi, Tiếng rao mua tóc…). Khi thì chất liệu dân gian hóa thân vào những câu thơ qua hình thức hát ru (ru cái nóng, ru con, ru anh, ru mẹ, ru một miền quê Ba Vì…), qua hình thức cắt dán ca dao tục ngữ: ta tắm ao ta, đổ quán xiêu đình, hoa cải về trời, muối mặn gừng cay, bạc phận hồng nhan, bèo dạt mây trôi, xẻ đá nung vôi, mẹ gà con vịt, bánh đúc có xương, sảy nghé tan đàn, mang nặng đẻ đau, chân mây mặt sóng… Chính những trầm tích văn hóa dân gian đã thấm đẫm tâm hồn chị, để rồi chúng được tái sinh và phát sáng: Dù anh biển rộng trời xa/ Cũng không bước nổi qua tà áo em (Anh và em). Tắm mình trong khí quyển của văn hóa dân gian, người đàn bà trong thơ Nguyễn Thị Mai còn “học lỏm” được cả cách cảm nhận rất hài và rất hóm của dân gian: Chiều nay bãi biển có sư/ Tự nhiên con sóng lắc lư bập bình/ Phao căng tròn mắt đa tình/ Bao nhiêu hai mảnh ngụp mình sủi tăm (Tắm biển gặp sư).
Cho nên, chẳng có gì lạ khi Nguyễn Thị Mai đã chọn thể lục bát, thể thơ thuần Việt nhất, để phô diễn tình cảm của những nhân vật nữ và cũng chính thể thơ này đã bầu lên tên tuổi của chị trong làng thơ Việt. Những bài lục bát của chị hầu như không thấy trường hợp bị ép vần, mà phần nhiều được viết một cách rất tự nhiên như người Việt nói tiếng Việt: Nhà quê còn chút mẹ già/ Đêm thâu thức giấc, canh gà ho khan; Vườn quê còn rặng xoan gầy/ Lá rơi xót đất hoa bay đắng trời (Nhà quê).
Thêm một lí do đã tạo nên sức hấp dẫn của bức chân dung người đàn bà Việt trong thơ Nguyễn Thị Mai, đó là lớp ngôn ngữ vô cùng thuần Việt: lũn cũn, rười rượi, toe loe, ới lên, chim chíp, đen đúa, nhọ nhem, tất tưởi, thèn lẹn, nồng nã… Với ý thức cao về trách nhiệm của một người lao động chữ nghĩa, chị đặc biệt quan tâm tới việc sáng tạo ngôn từ, góp phần làm cho tiếng Việt thêm phong phú: vung văng, khơi vơi… Đặc biệt, giống như bậc kì nữ Xuân Hương, chị đã tạo ra những từ láy ba đắt giá: đứ đừ đư, ới ời ời, ỉu ìu iu, oải oài oai, tướp tườm tươm, lẻo lèo leo… Chẳng hạn:
Tình ơi, thôi mất đừng tìm
Lẻo lèo leo dậu bìm bìm thế nha
(Học lỏm ca dao)
Hẹn hò như buộc thắt lưng
Thế mà bỗng tửng từng tưng chối từ
Miệng ngoan uống phải rượu hư
Cho nên giọng đứ đừ đư mất rồi
(Tự ái)
Ngôn ngữ thơ Nguyễn Thị Mai là sự gặp gỡ giữa ngôn ngữ thơ ca, ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ của cuộc sống đương đại. Nên người đàn bà trong thơ chị không chỉ mang vẻ đẹp công, dung, ngôn, hạnh của ngày hôm qua mà còn rất tự tin an nhiên thụ hưởng cuộc sống công nghệ ngày nay. Thôi đừng rao khỏi nhọc lời/ Vào mạng mà gọi đau đời chấm com (Tiếng rao mua tóc). Những nét văn hóa mới lạ ấy chính là cú hích giúp cho chân dung người đàn bà Việt tự đổi mới và không ngừng tỏa sáng
Trần Thị Trâm – VNQĐ