Tapchinhavn.vn – Xin gửi đến độc giả tham luận của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch UBTQ Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam trong hội thảo “Hoàng Quang Thuận với Thi Vân Yên Tử”


Nhà thơ Hữu Thỉnh

Một hồn thơ
sau những bức tranh tôn giáo


Yên Tử ngày nay vừa là một danh thắng, vừa là một thánh địa. Trước khi Trần Nhân Tông xuất hiện, đó thuần là một danh thắng Trần Nhân Tông đã ban tặng danh tính thứ hai cho Yên Tử, một danh tính đầy chất tâm linh và huyền bí, đó là một thánh địa. Rừng Cúc Phương sẽ thiếu hấp dẫn nếu không có Động người xưa. Vịnh Hạ Long sẽ giảm phần mỹ lệ nếu thiếu Hang Dấu gỗ. Yên Tử vừa đẹp vừa huyền bí, đó là một toà lộng lẫy của thiên tạo và một thế giới cao khiết của một vĩ nhân. Hai vẻ đẹp đỉnh cao của thiên nhiên và con người chung đúc nên một Yên Tử đủ sức thi gan cùng tuế nguyệt.
Xưa nay thi nhân hành hương về Yên Tử rất nhiều và đề thơ cũng không ít. Cảnh chỉ có một mà tình thì bách tính. Cho nên Yên Tử không ngừng được trùng tu và tôn tạo vừa bằng vật thể vừa bằng phi vật thể. Trong phần phi vật thể phong phú này, người ta nhắc Hoàng Quang Thuận. Trước khi đến Yên Tử, Hoàng Quang Thuận chỉ là một nhà khoa học, sau khi về Yên Tử, anh thành một người say thơ. Đó là một sự lạ phổ biến. Tại sao lạ mà lại còn phổ biến? Phổ biến là vì cũng có nhiều nhà khoa học làm thơ, nhưng  hiếm có ai làm nhiều thơ về Yên Tử như Hoàng Quang Thuận. Lạ nữa là có những nhà khoa học cao hứng xuất thần làm một bài thơ, rồi để đấy, dành trọn thì giờ cho khoa học; còn Hoàng Quang Thuận, thì sau cái ngày định mệnh ấy, anh vẫn là nhà khoa học đồng thời là một người thơ. Tuy vậy, không nên thần bí hóa khi giải thích các bài thơ của anh. Làm như thế vô tình làm hạ thấp vai trò của chủ thể.
Thi Vân Yên Tử
có sự tập trung cao độ về mặt đề tài. Đó là tập thơ hoàn toàn về Yên Tử. Tất cả di tích đều đi vào thơ. Sau những người thợ, có một người thơ. Những người thợ thì vô danh, còn người thơ thì hữu danh. Hoàng Quang Thuận công phu, kỹ càng và rung bật không bỏ qua một sự tích nào. Anh làm thơ như người vẽ tranh vậy. Và sau tranh ta bắt gặp hồn người. Thơ anh có đủ yếu tố của thơ thiền, một sự hòa quyện say đắm giữa cảnh, sựtình. Tất cả tạo nên những bức tranh tôn giáo trầm mặc mà sống động, thanh khiết mà run rẩy. Hoàng Quang Thuận đặt vào đấy tất cả phần hồn, phần cảm của mình, còn chữ nghĩa vẫn là những vật liệu thông thường như chúng ta thường gặp. Hình như anh cũng không để ý lắm đến kỹ thuật, đến cách tân, mà cứ thả bút theo dòng xiết của tâm hồn. Thơ của Hoàng Quang Thuận là những bức tranh đan dệt bằng tâm hồn của một nhà khoa học.
Yên Tử là đất kén thơ. Cảnh thì đẹp thế. Người thì vĩ đại thế. Cảnh ấy, Người ấy, thiêng liêng ấy không chấp nhận cho bất cứ ai đến đó để lưu danh bằng sự xoàng xĩnh. Cho nên thi nhân đến Yên Tử phải rụt rè, so bút là phải. Hoàng Quang Thuận biết rõ điều này, anh không đặt cho mình cái nhiệm vụ đến đó để so tài với các thi nhân về câu chữ. Anh làm thơ như là kẻ vâng lệnh của tâm hồn, của lòng thành thực. Và vì thành thực, anh đã chạm đến thơ. Làm thơ cũng giống như một cuộc hành lễ, trong muôn lễ vật thì sự thành thực là lễ vật cao nhất.
Thi Vân Yên Tử
nói được tình cảm chung của những người hành hương là nâng niu, tôn kính. Hoàng Quang Thuận nói về cây về mây về rêu về đá… xúc động như nói về con người. Bởi anh xem mọi vật ở đây là một mảnh tâm linh của Phật, đã được Phật hóa thân. Tôi chăm chú đọc lại nhiều lần bài Am xưa và lưu giữ mãi cái dư vị của nó.
Sớm cưỡi mây chơi cùng non biếc

Đêm về bến nghỉ lót trăng nằm

Tiếng sáo thiền ca vui bất tận

Ngập tràn Yên Tử trăng trong trăng

Bài thơ tiêu biểu cho hai thiêng liêng hóa và đời thường hóa. Cốt cách thì đúng là cái cốt cách của hiền nhân, của tao nhân mặc khách, luôn lấy sự cao khiết làm trọng. Nhân vật trong bài thơ này, phải là người tu đắc đạo, nhẹ bẫng, trong suốt, là người lấy trăng thay cho giường chiếu mà không sợ phàm tục, nhìn thấy trong trăng còn có nhiều trăng nữa, tức là qua một vài mà nhìn thấy cái vô biên. Cách nhìn trăng, cảm trăng, ngộ trăng như thế cũng là cách cảm thấy những phận người. Hai chữ dư vị tôi nói ở trên là như thế.
Hà Nội, ngày 06-8-2012
H.T