Nguyễn Bình Phương
Như con người, thể trạng văn học cũng chập chờn lúc thăng, khi giáng, lúc khỏe, khi yếu. Thời điểm này, sự tĩnh lặng của văn học gây cảm giác lấp lửng, nửa như nó muốn xa lánh đời sống, lại nửa như nó bị đời sống xa lánh. Phải chăng văn học đang đối diện với những vấn đề của mình.
Nhà văn Nguyễn Bình Phương
Nhìn nhận dưới đây chỉ là chủ quan trong tư cách một người viết, cùng với giấc mơ trong tư cách một độc giả.
1. Văn học, với những gì thể hiện hôm nay, cho thấy đang thiếu một sự ráo riết truy nguyên về đời sống, về tình thế của con người ngay trong thì hiện tại, và cả trong so sánh với lịch sử. Điều này có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân trực tiếp, gần nhất chính là do hiện thực của một bộ phận nhà văn, đặc biệt những nhà văn trẻ tuổi đời, đột nhiên bị trượt đi, họ chỉ tiếp cận với hiện thực gián tiếp, hiện thực ảo qua mạng cũng như sách vở. Đã vơi dần những hành vi sống đúng nghĩa, là đi và ngã và đứng dậy, và sày vảy. Chính vì thế mà nhiều nhà văn trở nên lúng túng. Nghệ thuật, nảy mầm trên đời sống thực tại, dứt khoát chỉ trên đời sống thực tại với toàn bộ cảm nhận trực tiếp, trọn vẹn của nhà văn.
Tuy nhiên chúng ta cần mở rộng khái niệm đời sống với sự chấp nhận rằng thảy những gì tồn tại trên thế gian này, những gì có trong con người đều là đời sống, ngay cả những giấc mơ và những cơn ảo mộng diệu vợi nhất. Văn học, nếu còn muốn tồn tại trong độc giả thì cần tiến gần lại đời sống, cần những tiếng nói trực diện, sắc sảo phản ánh, nhận diện, mổ xẻ về các khía cạnh, các vấn đề nóng bỏng của xã hội như đạo đức, văn hóa, lí tưởng và cái đích nó đạt đến dứt khoát phải là cơ hội giải phóng con người khỏi bóng tối của chính nó.
Nghệ thuật chính là cách mà con người vượt qua thực tại của mình để tiến tới một thực tại khác có tính cải thiện cao hơn, dễ chịu hơn, lí tưởng hơn. Nói như thế để thấy rằng văn học không phải dùng thanh toán quá khứ, càng không phải để đạp đổ thực tại. Quá khứ không thể bị vứt toẹt đi khi hiện tại làm người ta phẫn nộ. Và thực tại không thể bị bóp méo, bị kết án, bị chà đạp một cách mù quáng theo góc nhìn nhận phiến diện, thiếu biện chứng.
Tiếc thay vẫn có những nhầm lẫn giữa phê phán với đập phá, giữa phản ánh với bóp méo, vẫn có những kích động do nhầm lẫn quyền sáng tạo và cả lịch sử lẫn thực tại bỗng nhiên bị tô vẽ đến mức trở nên xệch xoạc. Ở đây bắt buộc phải đòi hỏi sự công tâm của nghệ sĩ, sự công tâm được đặt lên bàn cân mà trục giữa của nó phải là sứ mệnh của nhà văn gắn với trách nhiệm một công dân, một nhà nhân văn chủ nghĩa. Nếu văn học thiếu trách nhiệm, nó sẽ đi xa khỏi người đọc, xa khỏi đời sống, như thế đồng nghĩa với việc nó đánh mất uy quyền cùng giá trị thâm sâu của mình. Văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung, phải là cánh chim bay trên mọi biên giới, nó là bài học về sự vỗ cánh, là tiếng hót báo hiệu tự do còn đang tồn tại và bắt buộc phải tồn tại nếu chừng nào con người còn tự nhận mình là con người.
Nhưng trên thực tế hiện nay đã có hiện tượng tự đánh mất tự do ở vài ba khuynh hướng sáng tác. Một số nhà văn, do ngộ nhận quá trớn về quyền tự do sáng tạo đã dẫn tới việc nhăm nhe phủ định những quy ước căn bản về nhân tính, phủ định văn hóa truyền thống, coi thường, xúc xiểm thành quả lịch sử của các thế hệ đi trước. Hệ lụy là văn học bị trói buộc vào sự cố chấp, sân hận, khiến cho tác phẩm chỉ còn là những văn bản tranh đấu thô thiển.
2. Tính tự cao tự đại của nhà văn đến lúc cần phải khuất đi để văn học tồn tại một cách có ích. Sự vĩnh cửu, xét cho tận cùng, chỉ còn lại trong những tình thế xã hội cụ thể mặc dù tính dự báo của văn học là tối quan trọng. Mọi tìm kiếm, cuối cùng đều là để chạm tới bản chất cốt lõi của hiện thực. Điều ấy cổ xưa và vững chãi như đá. Nhưng ở nơi bon chen nhốn nháo, đá thường bị lãng quên, bị thay thế bằng bê tông màu mè.
Với sự mẫn cảm của mình, hiện thực đang lặng lẽ giành lại vị trí mà nó thấy cần phải có. Mộng ảo một thời là sức đẩy cho văn chương bay bổng giờ đây đã đảo cánh trở thành phẩm chất của khoa học công nghệ. Càng ngày ngôn ngữ càng chắc chắn không theo kịp sự ảo diệu của công nghệ thông tin, bởi chỉ bằng một cú vuốt thoảng trên màn hình cảm ứng, người ta đã chạm tới những điều mà ngôn ngữ phải mất một khối lượng đồ sộ mới đạt được. Khoa học công nghệ đang tạo ra những thế giới mới, ở đó mọi mơ mộng đã được cụ thể hóa, ở đó con người có thể sờ vào giấc mơ của chính mình. Hơn bao giờ hết, vị trí của văn học trở nên mong manh bởi có rất nhiều lí do để đời sống chối từ nó, đặc biệt là thời điểm hiện nay, thời điểm mà tâm hồn con người đang bị phân tán theo tốc độ phát triển khủng khiếp của công nghệ hiện đại. Nhưng trong nguy cơ cũng xuất hiện cơ hội. Sự thắng thế của công nghệ thông tin có thể là cơ hội cho các nhà văn, những kẻ được mệnh danh là giác quan tinh nhạy của xã hội, với một chút cay đắng, ngậm ngùi, rời bỏ bãi bờ phù du để thụ hưởng lại vị chua cay của đời sống trên mặt đất vốn dĩ nó đã từng nếm trải. Xã hội này, tình thế dân tộc giai đoạn này cần tới làn sóng hiện thực phê phán một lần nữa, như nó đã từng xuất hiện những năm nửa đầu thế kỷ trước. Đương nhiên hiện thực phê phán mà chúng ta cần là hiện thực phê phán của những tâm hồn tràn đầy tính bao dung, dựng xây, nó không phải thứ hiện thực sống sít, thô lậu mà nhiều nhà văn đã bê nguyên xi vào tác phẩm của họ với cái nhìn không mấy thiện tâm, không mấy sáng sủa.
Văn học là rượu chưng cất từ đời sống. Chất men quyết định cho phẩm hàm của rượu nhưng rượu có thể bị hỏng, thậm chí gây độc khi để tạp chất lẫn vào. Hận thù và ích kỷ là tạp chất đáng sợ trong nghệ thuật. Đây là một trong những thử thách lớn nhất của nghệ sĩ. Văn học tuyệt không phải sự báo oán, càng không phải liều thuốc gây mê cho qua cơn đau. Chính xác, nó là cái giếng ăn thông trời với đất để con người ta có cơ hội nhìn thấy mình sóng sánh trong diện mạo khác, cả trên vợi cao lẫn dưới thẳm sâu, mà vẫn không bị thất lạc bản nguyên. Tính phi phàm của nghệ thuật văn chương nằm ở đây, chính ở đây cũng hàm ẩn những hiểm nguy bởi nó có thể dễ dàng dẫn dụ, xui khiến con người ta, cả độc giả lẫn tác giả, lạc lối và biến mất vĩnh viễn về một phía.
Đành rằng đời sống cứ chuyển trôi không thể ngăn cản, đành rằng khi con người đứng trên mặt đất này thì nó đã có vị trí vững chãi bởi sự hậu thuẫn của tạo hóa. Thế nhưng văn học lại có thể tác động tới tồn tại của con người, bằng cách nhẫn nại nuôi dưỡng giấc mơ cho mỗi cá nhân. Từ thực tại đầy rẫy mâu thuẫn, đầy rẫy cuồng nộ và khuất khúc, văn học dựng xây những bầu trời để nhân tính rợp bay, khai mở những con đường để độc giả đặt bước chân tưởng tượng của mình lên đó và ngoảnh lại mỉm cười bao dung với đời sống bụi bặm. Nói cách khác, văn học phải cho con người có dịp sống đời sống thứ hai, đời sống mà nhờ đó họ mới biết định lượng tâm hồn họ còn lại ngần nào, còn trong ở mức nào, còn tươi thắm, dào dạt ở mức nào.
Văn nghệ Thái Nguyên
Phạm Thúy Quỳnh đưa bài