Trong nhu cầu tìm tòi đổi mới lối viết để hội nhập văn chương thế giới, nhiều tác giả tìm gặp được những quan niệm nghệ thuật thích hợp không chỉ ở một lý thuyết nhất định mà ở nhiều lý thuyết thuộc nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Có thể là tự giác, các tác giả sáng tác có chủ đích, có nghiên cứu, khi sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật nào đấy, nhưng cũng có thể là tự phát do ảnh hưởng gián tiếp qua khí quyển đời sống văn hoá cộng đồng trong thời kỳ hội nhập các thủ pháp nghệ thuật mới đã thẩm thấu tự nhiên vào tác phẩm dưới dạng một vài yếu tố.

Trên văn đàn, công chúng hiển nhiên thấy rất nhiều nhà văn, nhiều tác phẩm không còn viết như trước, tuy nhiên so với các chủ thuyết mà các tác giả Việt Nam  tiếp cận trước đây như Chủ nghĩa hiện thực phê phán, Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, thì quả thật những vấn đề mới mẻ được đặt ra thâm nhập vào sáng tạo của các tác giả đương đại chỉ như một tâm thức văn hoá, nó chưa định hình thành những quy chuẩn nghệ thuật để có thể từ đó rút ra những định đề khu biệt với  lý thuyết sáng tác thời kỳ trước. Dẫu vậy một số cây bút phê bình và độc giả có kinh nghiệm vẫn nhận chân được những điều nổi bật về sự đổi mới ở các tác phẩm cụ thể. Tiểu thuyết, truyện ngắn đương đại vẫn nằm trong quỹ đạo phản ánh hiện thực nhưng có đổi mới so với truyền thống. Đó là sự phản ánh từ hiện thực “cần có” sang hiện thực “đang có”,  văn chương nước nhà nắm bắt điều đó, bước đầu hoà vào dòng chảy văn chương thế giới.

Điều nổi bật trước tiên trong các tác phẩm theo khuynh hướng mới là sự đổi thay đáng kể về cách nhìn hiện thực và con người. Hiện thực có nhiều thay đổi đa dạng và cũng phức tạp hơn, con mắt nhìn của nhà văn cũng không giữ nguyên nếp cũ, thay lối cảm nhận ấn tượng một chiều bằng lối cảm nhận biện chứng về sự đổi thay của những trật tự, sự đảo lộn các thang bảng giá trị đời sống, cả sự khủng hoảng niềm tin và tình trạng bất an của con người trước những biến chuyển thời cuộc cũng như sự lộng hành của cái ác. Một nhân vật trong tác phẩm của một tác giả trẻ đã thổ lộ: “Vài trăm năm sau, khi con cháu chúng ta nhìn lại cái thời đại này chẳng biết chúng nó sẽ cười hay khóc hay cả hai” (Phan An – Quẩn quanh trong tổ). Trong thế giới đó con người  không là một hiện hữu “lập trình sẵn” mà chứa nhiều nghịch lý, nhiều mâu thuẫn, xung đột.

Ẩn chứa một quan niệm triết – mỹ như vậy, chúng ta có thể tìm ra nhiều  dẫn chứng về các mẫu nhân vật tương quan ở các tiểu thuyết, truyện ngắn thời đổi mới. Cuộc sống luôn chứa đựng những mầm mống của sự phân hoá, tác phẩm bên cạnh những nhân vật chính diện tích cực các tác giả xây dựng những nhân vật tội lỗi, tha hoá, những “cái ác”. Tuy nhiên văn xuôi thời kỳ này các loại nhân vật đó ít thành công như các thời kỳ trước, đa phần thành công là sự xuất hiện những nhân vật tuy sống trong một bối cảnh khắc nghiệt, cam go, những số phận có thể  là nạn nhân nhưng không đánh mất bản ngã. Một nhân vật trong tiểu thuyết Trăng vỡ (Đức Ban) đã thốt lên: Bom đạn thằng Mỹ nó khủng khiếp nó làm cho con người thương tật đui què, thấy rõ ràng. Đằng này người ta làm cho anh bị thương nhưng không thấy người ta đâu… Những vết thương tinh thần không thấy rõ đối phương, con người trăn trở vật vã để vượt qua, trước hết để vượt qua mình. Con người không thuần nhất, đầy tâm trạng trong cuộc vận động mưu sinh để sống chứ không chỉ tồn tại, hoàn cảnh sống khắc nghiệt, cạm bẫy rình rập, đời sống của họ – một đồ thị hình sin cách quãng, chao đảo, phân ly, nhưng ánh sáng thiên lương vẫn không hề bị dập tắt, dẫu “trầy trật” trên mỗi bước đi, luôn “tự vấn” hướng về chân lý và điều thiện. Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Ngọc Tư, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Quang Thân, Chu Lai, Trần Thuỳ Mai, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Sương Nguyệt Minh… rất gần với quan điểm thẩm mỹ này, đúng với nhận xét của Hữu Thỉnh khi ông nói về các nhân vật trong tiểu thuyết đương đại: …các nhân vật tìm thấy ánh sáng cuối con đường hầm tăm tối của mình, khi mà thân phận họ luôn bị đẩy đến chỗ khốn cùng, ánh sáng đó đều là ánh sáng của lương tâm và bởi lóe lên từ cực cùng bi phẩn, lương tâm đó tỏ rõ giá trị chân thực; […] qua đó mà phát lộ vùng “thặng dư giá trị người” của nhân vật, của chúng ta nói chung, “vùng thặng dư” là nơi văn minh phát khởi. (Tọa đàm về tiểu thuyết Quyên của Nguyễn Văn Thọ, Văn nghê số 51-2011). Về phía ngược sáng, xuất hiện các nhân vật phản diện trong quá khứ, những kẻ ở thế giới đối lập, được thể hiện trong một cảm quan đầy tính nhân văn: là kẻ địch, kẻ xấu nhưng xấu trong cái bản thể “người” chứ không hoàn toàn thuộc thế giới “vô nhân tính”, với cộng đồng không đứt hẳn (Chim én bay – Nguyễn Trí Huân), có thể hoàn lương trong một hoàn cảnh sống mới.

Trên bình diện xã hội, phải chăng các kiểu nhân vật tính cách đa dạng là sản phẩm cuộc sống đương đại trong cơ chế thị trường, khác kiểu “nhân vật tích cực” khá phổ biến của văn xuôi thời kỳ trước! Ngay các  tác giả đã “chín” với cách viết cũ trong việc thể hiện các nhân vật ở các tác phẩm sau này cũng có nhiều thay đổi (Nguyễn Khắc Trường – Mảnh đất lắm người nhiều ma, Dương Hướng – Bến không chồng, Nguyễn Xuân Khánh – Hồ Quí Ly, Ma Văn Kháng – Một mình một ngựa, Lê Văn Thảo – Lên núi thả mây…). Đâu đây đều có sự băn khoăn đổi thay một lối viết nặng về thế giới quan mà nhẹ cảm xúc thẩm mỹ, quá chú trọng vào việc thể hiện “bản chất” xã hội theo lối cũ, trong khi cuộc sống đương đại  cái tốt nhiều nơi bị lu mờ mà cái xấu với mọi hình, mọi dạng tồn tại khá đậm, tác phẩm kiểu đó thực chât sơ lược hóa cuộc sống, nhạt nhẽo hoá nghệ thuật. Bỏ quên hoặc nương tay với cái ác, cái xấu bất cứ hình thức nào cũng tạo điều kiện cho nó phát triển. Nhưng, văn chương thể hiện cái xấu không phải là thêm vào cái đuôi báo chí những sự kiện, những “con người xấu” đang đầy rẫy , mà cần khái quát thể hiện “cái xấu” của con người , “cái xấu” của cuộc đời trong quá trình phát triển, tồn tại, tha hóa… để cảnh tinh mọi người, giúp mọi người tự kỷ ám thị trước cái xấu, dù anh là ai!  Đó là con đường đi của các tác phẩm lớn từng gây ấn tượng sâu sắc cho độc giả. Cái xấu vượt qua biên giới báo chí, tiểu thuyết hình sự để đến với tiểu thuyết tâm lý xã hộ i- một phấn đấu thể hiện tài năng nhà văn. Điều này tiểu thuyểt, truyện ngắn còn có một khoảng cách với đời sống!

Trên bình diện thẩm mỹ – thể loại, tiểu thuyết thời đổi mới thể hiện một lối tư duy đa nghiệm về con người, về số phận cá nhân. Con người trong trạng thái động, tính cách phong phú, được miêu tả trên nhiều phương diện, nhiều cung bậc, không phải là một hằng số! Trong quan niệm mới về thể loại, những số phận, những tâm lý cá nhân được đi sâu khai thác triệt để cả đến những mảng tâm tư thường bị lấp kín bởi lớp bụi thành kiến hoặc bởi sự hời hợt về thi pháp. Lối viết mới vượt qua lối trần thuật sự việc đơn giản cốt sao cho thật, cho đúng, mà đề cao yếu tố cảm nhận, sáng tạo cá nhân, tạo dựng những tính cách đa dạng theo chiều sâu. Một thế hệ nhân vật mới trong tiểu  thuyết và truyện ngắn đương đại tính cách đa dạng hơn trước, bản thể tâm linh và tính dục được miêu tả đầy đặn không còn rụt rè hoặc khô cứng. Trong các tác phẩm (Quyên, Đức Phật, nàng Sivitri và tôi, Thiên thần sám hối, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Cơ hội của Chúa, Mẫu thượng ngàn, Bóng đè, Con gái nữ thuỷ thần, Trăng soi đáy giếng, Khói trời lộng lẫy,…) các nhân vật có khi sống trong một không khí huyền hoặc, tâm trạng  chìm đắm trong ảo giác, vô thức. Quá khứ, hiện tại, thực, mộng trộn lẫn, những triết lý nhân sinh xâu chuổi chiết toả trong các thân phận, kiếp người… Trừ một số ít lạc lõng, đa phần những trang viết về nhục cảm, về cái “bản năng gốc” dục tính của con người khá đầy đặn, mềm mại khơi gợi sự đồng cảm thẩm mỹ, không thô thiển thuần tuý bản năng (Cõi người rung chuông tận thế, Một mình một ngựa, Quyên, Dị hương, Cánh đồng bất tận, Lưu lạc thân xác, Đàn chim sẻ-ri bay qua rừng, I am đàn bà…) Truyện ngắn  Đàn chim sẻ-ri bay qua rừng (Võ Thị Xuân Hà), hội tụ được khá nhuần nhị cái đa dạng tính cách của một thế hệ nhân vật mà nhiều người nhắc đến (Diễm). Chúng tôi muốn lưu ý đến một nhân vật khác, một nhân vật giao thời, Thản đã sống qua những ngày bom đạn, từng có người thân hy sinh trong chiến tranh, vẫn có thể vui thú săn từng lũ chim, thản nhiên nhìn những vệt máu đỏ lòm lom rỏ trên cỏ, ngước lên trời nói với người tình “vì chúng bạt ngàn”. Nhân vật như tiên báo một lớp người hãnh tiến, vô cảm, gặt hái những hy sinh của cha anh rồi sống trơ lỳ bởi những dục vọng cá nhân sau này.

Với cách nhìn đổi khác về xã hội, về con người đã kéo theo những đổi mới về các biện pháp nghệ thuật từ kết cấu, xây dựng hình tượng, ngôn ngữ… Khảo sát kỹ, chúng ta thấy không ít các tác giả thể hiện lối viết mới  trước hết ở sự tô đậm một số thủ pháp nghệ thuật quen thuộc đã có từ truyền thống như: chú ý sự  pha tạp đời thường dân dã, tăng cường yếu tố nhục cảm, mở rộng tính kỳ ảo  sang địa hạt tâm linh vô thức, sau nữa biết kết hợp xử dụng các yếu tố kỹ thuật thể loại hiện đại: kiểu kết cấu mở, đa tuyến, phân mảnh hoặc  lối lắp ghép điện ảnh; các mô thức giễu nhại, đổi ngôi trần thuật; ngôn ngữ đời thường giàu sắc thái cá nhân… Trong mấy năm gần đây, một số tác phẩm được giới phê bình lưu ý và nhắc đến là những tác phẩm ít nhiều có  sự tìm tòi đổi thay về hình thức phù hợp với lối tư duy tiểu thuyết “hậu hiện đại”: Thiên thần sám hối – Tạ Duy Anh, Thoạt kỳ thuỷ, Ngồi – Nguyễn Bình Phương, Phố Tàu – Thuận, Thời cơ của chúa – Nguyễn Việt Hà, Và khi tro bụi- Đoàn Minh Phượng …(Xem thêm bài viết Một cách nhìn về tiểu thuyết hậu hiện đại ở Việt Nam – Lý Hoài Thu, Hoàng Cẩm Giang– TC NCVH 06-2011)

Không phải không có tác giả tuy rất nhạy bén với các thủ pháp mới,  tuy nhiên đó chỉ là những tùy biến đầu ngọn mang nhiều màu sắc hình thức. Kỹ thuật tân kỳ ở một vài tác phẩm có thể nhận được vài lời khen đâu đó nhưng không đậu lại lâu trong lòng bạn đọc, vì rằng sự đổi mới chân chính mà người đọc chờ đợi là sự suy tư giàu màu sắc triết học cũng như tinh thần nhân bản trong tư duy thẩm mỹ mà các tác giả cần trừu xuất ra khi tiếp cận nền văn học thế giới, tiếp thêm năng lượng để sáng tạo có những tác phẩm đỉnh cao, chứ không phải thói ham thanh chuộng lạ.

Trên cơ sở nền kinh tế đang phát triển, một nền văn hoá tiên tiến  giàu bản sắc dân tộc, những yếu tố tích cực mới mẻ thích hợp đời sống văn học dân tộc đương đại đang dần định hình bổ sung cho lý thuyết cũ đủ sức soi chiếu cho các trào lưu văn chương, thu hút các tác giả và các sáng tác vào quỹ đạo của nó. Dẫu khó tính đến đâu cũng nhận thấy là sự tiếp thu cái mới đã làm cho diện mạo văn xuôi (tiểu thuyết, truyện ngắn) thời kỳ sau này khác xa các thời kỳ trước. Vấn đề là sự đổi mới chưa đồng đều thành một trào lưu rộng rãi và chưa có nhiều đỉnh cao để minh chứng mạnh mẽ.

Chúng tôi cũng cho rằng, yêu cầu một sự đổi thay mạnh mẽ toàn diện dòng văn xuôi đương đại như kiểu văn học 30-45 thay cho văn học trung – cận đại, hay như văn học sau 1945 thay cho văn học tiền chiến, thì vấn đề còn quá vội. Vì bên dưới những đổi thay thủ pháp nghệ thuật (hay rộng hơn là một phương pháp sáng tác) phải có cơ sở một hệ tư tưởng triết – mỹ tương ứng. Nền nghệ thuật Việt đương đại là sự tiếp diễn hệ hình triết – mỹ từ sau CM Tháng Tám, một “hệ thống mở” có đổi mới nhưng không đổi thay về nguyên lý, cho nên  thi pháp có đổi mới cũng chỉ đổi mới các thành tố, các yếu tố, hữu dụng phục vụ cho nền nghệ thuật hiện thực gắn bó đời sống cộng đồng, không thể miên man trong trạng thái phi lý của một hệ tư tưởng triết – mỹ xa lạ mà có nhà lý luận cho rằng “văn học lâm nguy” (T.Todorov).

08/2012