Lời dẫn
Mỗi khi có dịp nói về văn học từ 4-1975 đến nay, báo chí chỉ hay nói tới thời kỳ từ 1986 và gọi nó là văn học đổi mới. Nhưng với tôi, nên nhìn nhận giai đoạn này suốt 40 năm liền với cái đặc điểm chủ yếu về mặt xã hội của nó: một nền văn học hậu chiến.
Liên quan tới đề tài này, trong thời gian qua, ngoài các bài viết về Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh tôi cũng đã đề cập tới mấy nhà văn khác. Các bài này tuy chưa tập trung đi vào mối quan hệ giữa nhà văn và cái “thời gian lớn” mà sáng tác của họ ra đời, nhưng đều có manh nha gợi ý ít nhiều. Vậy xin được tự tái bản sau khi đã có một chút điều chỉnh và bổ sung cho rõ ý hơn.
NHẬN DIỆN CON NGƯỜI HẬU CHIẾN
TRONG THỜI XA VẮNG
“Có những cuốn sách làm cho người đọc căm ghét cuộc sống; có những cuốn sách làm cho người đọc thêm yêu đời nhiều hơn. Còn qua những trường hợp như Thời xa vắngcủa Lê Lựu, đọc xong, tự nhiên tôi cứ thấy tiếc đời. Có lẽ không chỉ nhân vật trong truyện mà không thiếu người trong chúng ta cũng có một đời sống trớ trêu vô lý thế chăng ? Vậy phải sống thế nào bây giờ để khỏi xót xa, ân hận?”
Một người cũng trạc tuổi như nhân vật Sài, sau khi gặp Sài qua những trang sách của Lê Lựu, tâm sự như vậy. Mà không chỉ riêng anh. Ở nhiều người, ý hướng thiết tha nhìn lại đời mình cứ thấy rộn lên, sau khi đọc Thời xa vắng, người ta lấy Sài ra để soi vào đời mình, vận vào mình. Đó là một thứ may mắn mà chỉ rất ít tác phẩm đạt tới.
Cắn răng lập nghiệp
Hai mô-típ thường thấy trong văn học xưa nay là việc lập nghiệp của người ta trong cuộc đời và việc mưu cầu hạnh phúc ở tuổi thanh niên, nhiều khi hai việc ấy chi phối toàn bộ đời sống con người, nó là động lực để nhiều cá nhân trở lên hết sức năng động và có dịp bộc lộ hết mình. Có lẽ vì thế mà nhiều tiểu thuyết xưa nay hướng vào miêu tả hai việc đó, để trình bày “bức tranh thế sự”. Những tác giả lớn cũng là những người mà qua việc miêu tả sự lập nghiệp, và mưu cầu hạnh phúc của con người, biết chỉ ra rằng điều quan trọng ở đây là nhận thức ngày một sâu sắc hơn về đời sống và bản lĩnh của nhân cách – đấy mới là những nhân tố cơ bản để có thể có được sự nghiệp và hạnh phúc chân chính.
Như Lê Lựu đã bộc bạch (Văn nghệ số 12,1986) khi miêu tả lại quãng đời Sài, anh không chủ tâm kể về công việc cụ thể mà chủ yếu đi vào tính cách nhân vật. Thành thử câu chuyện lập nghiệp của Sài nói chung cũng không được trình bày với tất cả sự mạch lạc cần thiết của nó. Nó chỉ được lồng vào chuyện hôn nhân của nhân vật lúc ban đầu.
Song không phải vì thế mà phương diện này ở con người Sài không rõ. Sài đi bộ đội để được xa người vợ tảo hôn và có dịp tự do nghĩ ngợi hơn về một cô gái mà anh yêu và cũng được anh yêu lại. Nhưng chỉ có thế! Do yêu cầu của sự phấn đấu trong bộ đội, anh không dám tiến xa hơn một bước trong mối tình chân chính của mình; rồi trong một lần về phép, anh lại cầm lòng chung đụng với người vợ tảo hôn cũ để vừa lòng mọi người – cả hai việc đều cùng một mục đích là cốt giành ưu thế trong phấn đấu về mặt chính trị.
Khi thuật lại chuyện này, Lê Lựu đã cực tả cái cay đắng trong tâm lý người thanh niên và những trang trình bày lại lối áp đặt vưà thân ái vừa thô bạo của chung quanh đối với Sài là những trang thuộc loại hay nhất của tác phẩm.
Theo cách diễn tả của Lê Lựu, Sài chỉ bề ngoài làm theo ý muốn của mọi người, còn trong bụng, anh rất đau khổ, thậm chí thấy ghê tởm.
Từ đây bắt đầu một định hướng lớn trong cuộc đời Sài. Vui buồn cá nhân không là gì cả, tiếng gọi của lý trí và khao khát lập nghiệp mới là động cơ thúc đẩy hành động. Vì nhiều lý do ở hậu phương tạm thời chưa đạt được mục đích ư? Sài lại sẵn sàng đi xa hơn, ra tận mặt trận. Không phải vì nước vì dân gì cả. Mà chỉ để lập công, cái nhân tố chính sẽ quyết định tương lai mỗi cá nhân.
Không mấy khi văn học chúng ta miêu tả một nhân vật “ra đi” theo kiểu này.
Song không phải vì thế mà Sài xa lạ với đông đảo bạn đọc.
Phần lớn người ở vào cái tuổi như Sài, lớn lên trong những năm như Sài, đều sống, hành động như Sài và họ cũng đã thành công như Sài của Lê Lựu.
Cái chung của họ là ý thức lập nghiệp chưa đi đôi với nhu cầu nhận thức về đời sống và cũng chưa tạo nên một sự trưởng thành trong nhân cách. Cũng vì thế mà sau khi yêu cầu lập nghiệp tạm gọi là xong, Sài lao vào việc mưu cầu hạnh phúc, thì lập tức thất bại.
Và cũng cắn răng mưu cầu hạnh phúc
Ra khỏi cuộc chiến đấu, Sài có cái may là được ly hôn, dứt hẳn quan hệ với người vợ cũ. Và anh ở vào tâm trạng kẻ bị giam hãm giờ được tháo cũi sổ lồng, kẻ bấy lâu thiệt thòi giờ có cơ đòi nợ. Anh không nhìn thấy gì khác ngoài những bất hạnh của bản thân. Quá cay cú vì chưa được nếm mùi sung sướng của mọi lạc thú trần gian, anh chạy thục mạng cốt săn tìm cho được chút hạnh phúc mà anh tưởng trừ mình còn ai cũng có.
Con cá quả đói đớp mồi thế nào thì lúc tìm vợ Sài cùng bộp chộp như vậy! Đứng ngoài nhìn, dễ thấy sao mà Sài cả tin, nông nổi, khinh suất, giản đơn! Thậm chí, phải nói anh có những khía cạnh ích kỷ nữa!
Nhưng kệ!
Với Sài, trước mắt chỉ có mỗi một việc là truy lĩnh lại tuổi thanh xuân, bù đắp lại chỗ thiệt thòi mình đã phải chịu. Thêm nữa, có một lý do để Sài càng “thục mạng” trong việc mưu cầu hạnh phúc: anh đang là người thành đạt. Anh quá tự tin, thậm chí mê đi, tưởng mình là thần là thánh.
Ở anh không phải chỉ có cái hèn như trước đó tác giả phân tích, mà còn có chút hợm. Hợm hĩnh, kiêu căng, hoắng lên vì khả năng của mình, cho rằng mình đi đánh nhau còn được, thì bây giờ làm gì cũng được.
Về sống ở thành thị, nhưng Sài không bao giờ tự hỏi thành thị là gì, mình cần làm gì để phù hợp với đời sống nơi đó. Bước vào xây dựng gia đình lần thứ hai, nhưng anh không bao giờ ngẫm nghĩ xem mình sẽ có một gia đình như thế nào, hạnh phúc của mình sẽ ở dạng như thế nào, trong thời buổi này thế nào thì là một thứ hạnh phúc vừa phải mà loại người như mình có thể có được.
Lý tưởng sống của Sài đơn giản, nếu không muốn nói là tầm thường.
Thế thì làm sao mà anh không thất bại được? Suốt phần hai của cuốn sách, chỉ thấy nhân vật Sài miên man trong hành động, hết cuống lên vì yêu lại cấp tốc cưới vợ, rồi lo vợ đẻ, rồi cãi nhau với vợ, rồi trông con ốm v.v…
Tất cả những trang này đã được tác giả dựng lại tỉ mỉ nhưng chỉ là tả Sài trong hành động; đâu có lúc nào Lê Lựu cho nhân vật rỗi rãi để ngẩng đầu lên mà nghĩ rộng ra về sự đời một chút. Thế thì làm sao có được sự định hướng chính xác tới các khát vọng cao cả!
Chỗ bi đát của Sài hình như là chỗ bi đát của nhiều người chúng ta: tham bát bỏ mâm; mải làm việc vặt mà quên cái đại thể.
Sau một thời gian khổ hạnh nay ai cũng sống chết lo làm một việc gì đó kiếm lợi thêm cho gia đình và yên chí rằng thế là hạnh phúc.
Còn hạnh phúc thật sự mặt ngang mũi dọc là như thế nào thì không ai biết và hình như cũng không cần biết nữa!
Mục đích thực dụng liền đẻ ra cách nhìn thiển cận.
Đời sống là gì, ý nghĩa của đời sống là gì, những câu hỏi ấy chúng ta thường lảng tránh, ta bảo nó là siêu hình, trừu tượng, nghĩ về nó là mất thì giờ, vô bổ, ai băn khoăn về nó là những kẻ ấm đầu dại dột. Ta cứ nhắm mắt bước liều, để rồi đến lúc thấy thua thiệt, thấy lỗi lầm thì đã muộn, và không hiểu sao cả, ta lại hoặc kêu trời hoặc đổ cho số phận.
Tóm lại, nói sống vụng còn là nhẹ, hình như ta không biết sống, đấy mới là điều đau hơn, đáng tiếc hơn.
Và toàn bộ Thời xa vắng là tiếng kêu của cả một lớp người cho tuổi trẻ của mình, cuộc đời mình; ngay khi thành đạt trong lập nghiệp nữa, họ vẫn bất hạnh, vì không biết sống.
Có thể bản thân Lê Lựu chưa có ý thức về điều này và một người như nhân vật Sài càng không bao giờ nhận ra điều này.
Nhưng chính nó mới là cảm tưởng mà một người đọc như tôi thu nhận được qua sự miêu tả của Lê Lựu trong Thời xa vắng.
Một cách lặng lẽ, tác phẩm gợi lên ở nhiều người chút động lòng và sự nuối tiếc, như từ đầu chúng tôi đã nói. Sự nuối tiếc ở đây là cái hích đầu tiên, để người ta nghĩ tiếp và tìm ra cho mình cách sống xác đáng. Song nghĩ rộng hơn một chút, phải thấy nếu như có cách nào đó để làm cho những người như chàng Sài kia tỉnh táo sớm hơn, nhận ra tình cảm của mình nhanh chóng hơn và có cách sống hợp lý hơn, sự hỗ trợ của xã hội cho cá nhân như thế mới gọi là hoàn toàn.
Ảo tưởng một lần ảo tưởng vĩnh viễn
Có một khía cạnh nữa của cuốn sách người ta cũng hay bàn là đoạn kết, khi Lê Lựu cho nhân vật về nông thôn lo việc hợp tác xã.
Đối chiếu với xu hướng chính của tác phẩm là ca ngợi sự trở về mình, thì đoạn kết đó là có lý. Hôm qua Sài không dám lấy Hương mà bấm bụng chịu thiệt, chẳng qua là “không dám là mình”, rồi lúc lấy Châu nữa, anh lại bất hạnh vì không biết mình là ai, vơ quàng vơ xiên, chạy theo những cái mình không có. Đi theo đường hướng như thế, cả hai phần đầu cuốn sách dường như đã chuẩn bị sẵn để mở ra cách giải quyết mà Lê Lựu viết trong đoạn cuối.
Nhưng đó mới là cách hiểu, cách cắt nghĩa của chính người viết. Với tôi, khi đọc sách để tính chuyện qua trường hợp của Sài rút ra những bài học cho mình, thì đoạn cuối ấy lại chưa chắc đã là hợp lý.
Thật vậy, như trên vừa nói, sở dĩ Sài thất bại trong việc mưu cầu hạnh phúc với Châu vì ở anh không có sự “tiêu hóa” cần thiết về đời sống của mình, không có sự tự ý thức cần thiết. Tình yêu là lĩnh vực không thể dối trá. Và Sài cũng không dối trá. Ấy vậy mà trong khi yêu người vợ mới say đắm và sẵn sàng tha thứ cho Châu tất cả thì Sài vẫn bất hạnh, sự yêu chiều của anh là một cái cớ để Châu coi thường anh, sự nép mình chịu đựng là một thứ lửa đổ thêm dầu phá vỡ hạnh phúc gia đình anh.
Một động cơ tốt có thể đẻ ra một kết quả tồi tệ không mang lại lợi lộc cho ai; tác giả đã tỏ ra rất thấu hiểu tình đời khi làm toát ra từ nhiều tình tiết trong truyện một kết luận như thế.
Nhưng thử hỏi ở phần cuối Lê Lựu cho Sài về nông thôn với cái gì? Không gì khác, cũng lại rất nhiều ảo tưởng về sự chân thành của mình, một cái gì gọi là thuộc “đồng đất con người quê hương” và những thói quen cố hữu của người nông dân mà hôm nay anh vẫn giữ được. Rồi trong không khí vội vã của đoạn kết, nhà văn cho biết là Sài đạt nhiều kết quả, trong ba năm anh đã làm thay đổi bộ mặt làng Hạ Vị và chính anh cũng trở lên khoẻ khoắn hơn, sôi nổi hơn.
Đọc đoạn này, chắc bạn đọc không nhận ra ngòi bút Lê Lựu như phần trước nữa. Vâng nghĩ lại thì thấy nông thôn mà Sài trở về đó tưởng là nơi nào khác chứ không phải là làng quê rất đáng yêu, nhưng cũng rất lạc hậu, con người bị cầm tù trong tư tưởng làm thuê và lối sống cổ hủ như nhà văn đã tả.
Hình như Sài đã quên. Chính trong vòng tay của những người thân yêu đó, mà Sài bị ép lấy vợ tảo hôn và chịu nhiều đau khổ khác. Sao khi nhìn nông thôn thông hôm qua, Lê Lựu sâu sắc thấu đáo, mà nhìn hôm nay, ngòi bút của nhà văn lại dễ dãi thế!
Ấn tượng lớn nhất khi đọc đoạn cuối tác phẩm là thấy không thể tin được. Sao trong quan hệ vợ chồng Sài ngớ ngẩn vụng dại vậy mà bây giờ, Sài tự nhiên anh ta như có phép tiên, nghĩa là nhìn mọi vấn đề ở quê hương rất sáng tỏ, làm đâu trúng đấy. Thành công của anh không hề dựa trên một chuyển biến nhận thức nào, như thế thì làm sao mà bạn đọc tin được?
Người đọc dễ đoán ra rằng cũng là hình thành lên trong cơn say (lần này là say sưa “trở lại chính mình”), chắc gì “mối tình” của Sài với làng quê khác mối tình của anh với Châu, nghĩa là mới thoạt đầu thì rất yên ấm, nhưng sau đầy rẫy lôi thôi, khốn khó!
Mặc dù Sài đã lớn tiếng tuyên bố “đến bây giờ mới biết là mình như thế nào…” (Thời xavắng tr .319), nhưng chúng ta cứ cảm thấy nhân vật này chưa tiêu hoá hết những đau khổ trong việc lập nghiệp và mưu cầu hạnh phúc hôm qua, chưa rút đúc nó thành kinh nghiệm sống chắc chắn.
Bởi ở Sài ảo tưởng còn nặng nề, nên những đau khổ vẫn còn chờ ở phía trước, dù anh quay về nông thôn hay ở lại thành thị cũng vậy.
Viết về quá trình tự nhận thức của con người,
cách tốt nhất để văn học tham gia vào các vấn đề thời sự
Xét bề ngoài, phải nhận tập tiểu thuyết này của Lê Lựu là một sách yếu về tay nghề: câu chuyện nhiều chỗ không mạch lạc, tác phẩm thiếu sự cân xứng tối thiểu, hình như lúc viết, tác giả chỉ cắm cúi dồn hết ý mình có lên trang giấy, nên chữ nghĩa lủng củng, câu cú rối rắm, ý nọ nhằng sang ý kia rất khó theo dõi.
Song tại sao Thời xa vắng vẫn có sức cuốn hút ? Lý do có lẽ ở cái chất sống tươi ròng nơi tác phẩm.
Cách viết cách trình bày hết mình của tác giả khiến cho người ta có cảm tưởng rằng có lẽ đúng là có một anh Sài như thế với câu chuyện như thế — trong văn học, đấy là đầu mối làm nên sức hấp dẫn. Khi ta nhận ra ở Sài có rất nhiều nhược điểm của con người hôm nay (chẳng hạn “duy ý chí “, “quá nhiều tham vọng”, “thiển cận,thiếu sự hỗ trợ cần thiết của văn hoá..” ) cũng là lúc ta cảm thấy rất gần với nhân vật này. Từ ấy, sự đọc sách có được sự hào hứng, mỗi người đọc y như được nhìn vào kiếp sống của một người khác rồi rút kinh nghiệm cho chính mình. Khi nhà văn đã đủ sức làm cho bạn đọc tin, thì mọi biện pháp kỹ thuật nghề nghiệp có yếu một chút, cũng sẽ được bỏ qua. “Câu chữ là quan trọng, nhưng trong văn học, yếu tố hàng đầu vẫn là tâm huyết “- lại một lần nữa,chân lý nghệ thuật đó được khẳng định.
Bằng cách đi sâu vào cuộc đời một cá nhân, Thời xa vắng đồng thời là một tác phẩm có tính thời sự rõ rệt. Để tạo ra hiệu quả thời sự cho những trang sách của mình, lâu nay ở một vài tác giả thường thấy có lối viết đi vào các vấn đề xã hội – kinh tế cấp thiết, nhờ đó gợi được sự chú ý của một lớp bạn đọc nào đó. Lê Lựu không làm thế, Lê Lựu chỉ nói riêng về con người, những mối quan hệ giữa người với người. Một vấn đề muôn thuở, mà cũng là vấn đề chúng ta đã nói đi nói lại rất nhiều. Đúng thế. Nhưng chẳng phải là vào những ngày này, sau khi nhận ra không biết bao nhiêu chuyện thiết yếu và đòi hỏi được giải quyết cấp bách, thì chúng ta đều nhận thấy vấn đề khái quát này lại càng nổi lên hàng đầu, nó là mẫu số chung của hàng loạt hiện tượng, nó là khâu cơ bản từ đó đóng góp phần gỡ dần ra các khâu khác. Trong việc miêu tả, nhận diện con người, nghĩa là nhìn con người trong biến chuyển của thời gian văn học có những ưu thế lớn lao. Làm thế nào để giúp con người nhận thức về chính mình đầy đủ hơn, từ đó tìm được cách sống hợp lý hơn, đấy vẫn là một nhiệm vụ thiêng liêng mà mọi nền văn học chân chính xưa nay muốn đảm nhận.
Có thể là tác giả không có ý thức đầy đủ, nhưng xét trên hiệu quả khách quan, Thời xavắng đã ít nhiều làm được điều đó, nó chính là lý do khiến cho người ta nếu có dịp đọc lại tác phẩm, vẫn rút ra được những thu hoạch bổ ích trên phương diện tìm tòi phương cách làm người của mình, tức phương diện nhân bản.
1986
Đã in trong Vương Trí Nhàn Phê bình &Tiểu luận, 2008
– Vương Trí Nhàn –