Cho đến đầu thế kỷ XXI, ở Mỹ, nền học thuật, phê bình và lý thuyết văn học nữ quyền đã làm thành một bộ phận của hệ thống tri thức được sản sinh trong lĩnh vực nghiên cứu nữ quyền. Về mặt tri thức, nghiên cứu nữ quyền tiến hành điều tra tỉ mỉ về giới tính, chủng tộc, sắc tộc, quốc tịch, giai cấp và tính dục; coi đó như là những loại hình tổ chức nên những hệ thống xã hội và hệ thống biểu tượng. Về mặt tổ chức, nó bao gồm khoảng chừng 630 chương trình nghiên cứu của phụ nữ và 80 trung tâm nghiên cứu thuộc khuôn viên trường học, rất nhiều hiệp hội chuyên ngành, cùng với hàng trăm nhà in cũng như các tạp chí nữ quyền. Một lĩnh vực học thuật rộng lớn đến như thế có lẽ đã vượt quá xa những gì mà lớp phụ nữ thuộc làn sóng nữ quyền thứ hai có thể trông đợi khi họ bắt đầu suy ngẫm về việc làm thế nào để các phương sách của học viện có thể được ứng dụng nhằm khích động phong trào còn quá non trẻ vào cuối thập niên 60 của thế kỷ XX. Bởi, mặc dù manh nha từ những năm đầu thế kỉ, các phong trào phụ nữ đã dần dần bị suy thoái khi các quốc gia đang lảo đảo đi ra từ Cuộc đại khủng hoảng và bước tiếp vào Chiến tranh thế giới thứ hai, phải thu mình lại trước cuộc đàn áp McCarthyite, và còn tiếp tục bị đè nén kéo dài trong suốt thời gian diễn ra cuộc Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, trong những thập kỷ khó khăn ấy, một phong trào nữ quyền mới cũng vẫn ngấm ngầm tồn tại trong các tổ chức tiến bộ – những hiệp hội lao động, các tổ chức tự do dân quyền, các Hội phụ nữ, Hội đồng giáo hội, và cả những dịch vụ xã hội – nơi mà người phụ nữ được tiếp thu những tư tưởng và cả những kĩ năng để xây dựng phong trào nổi dậy lần thứ hai.

Năm 1963, đúng hai năm sau khi tổng thống Mĩ John F. Kennedy thành lập Ủy ban đặc trách về tình trạng phụ nữ (President’s Commission on the Status of Women), một bộ sách đôi đã ra đời, châm ngòi cho cuộc thảo luận công khai về những gì từng được gọi là “vấn đề phụ nữ” (woman question). Bản báo cáo của Uỷ ban đặc trách về tình trạng phụ nữ: Phụ nữ Mỹ (American Women), do Margaret Mead và Frances Balgley Kaplan làm chủ bút(1), đã cung cấp tư liệu một cách tỉ mỉ minh chứng cho sự bất bình đẳng mà người phụ nữ phải chịu đựng trong giáo dục, lao động cũng như trong đời sống cộng đồng. Song song với nó, Sự huyền bí của tính nữ (The Feminine Mystique), tác phẩm bán chạy nhất của Betty Friedan(2), đã vạch trần hệ tư tưởng về đời sống gia đình – cái đã làm cho những người phụ nữ ở tầng lớp trung lưu và thượng lưu bị phụ thuộc vào người đàn ông về mặt kinh tế cũng như về mặt tình cảm. Nhượng bộ cho cuộc vận động hành lang dữ dội ấy của phụ nữ, Quốc Hội đã đưa ra quyết định coi phân biệt giới tính là một trong những kiểu phân biệt đối xử bị nghiêm cấm, thể hiện qua Đạo luật lương bổng đồng đều năm 1963 và Đạo luật về quyền công dân năm 1964 (tuy vậy, các cơ quan liên bang cố tình bỏ qua việc thực thi những Đạo luật ấy).

Trước sự xung đột với các cơ quan chính quyền, những thành viên của Uỷ ban phụ nữ trung ương và các Uỷ ban ở các tiểu bang đã rút ra một kết luận rằng: họ cần có một tổ chức với số lượng thành viên đông đảo hơn để có thể tạo sức ép cho sự chính thức hóa. Hệ quả đầu tiên là, Tổ chức Phụ nữ Quốc gia (NOW), được thành lập bởi 28 phụ nữ năm 1966 với Friedan làm chủ tịch, đã tăng từ 1.000 thành viên năm 1967 lên tới 30.000 thành viên và gần 400 hội phụ nữ vào năm 1973. Mặc dù chỉ thu hút chủ yếu những người phụ nữ da trắng thuộc tầng lớp trung lưu, NOW đã xây dựng một chương trình nghị sự có ảnh hưởng sâu rộng kêu gọi sự bình đẳng theo quy định của pháp luật; những cơ hội giáo dục và cơ hội việc làm; việc lập điều lệ về quyền sinh sản; hình sự hóa tội hiếp dâm và bạo lực tình dục; cải cách chính sách trong các lĩnh vực thuế, an ninh xã hội, phúc lợi xã hội và cả chính sách li dị; điều khoản về chăm sóc sức khỏe và chăm sóc trẻ em; và sự xóa bỏ những định kiến về giới tính.

Không chỉ thế, phụ nữ trong các phong trào nữ quyền những năm 60 thế kỷ XX còn tham gia đông đảo và tích cực vào những sự kiện cộng đồng làm khuấy động Nam Mỹ thời bấy giờ như: phát động phong trào Tự do ngôn luận (Free Speech Movement – FMS) trong khuôn viên trường Berkeley, xây dựng Hội người nghèo và thành lập Hội sinh viên vì một xã hội dân chủ (Students for Democratic Society – SDS) đối với sinh viên của các trường đại học, dẫn dắt giới trẻ hướng tới sự chống đối chế độ quân dịch trong Phong trào phản chiến, thực hiện đổi mới K-12 và thay đổi chương trình giáo dục đại học trong phong trào cải cách giáo dục. Vào lúc các phong trào đạt đến đỉnh điểm năm 1968, đã có trên 200.000 phụ nữ trở thành những nhà hoạt động đầy kinh nghiệm – những người đã có khả năng nắm được mô hình của sự thay đổi xã hội kết tinh từ phong trào dân quyền. Thêm vào đó, hoạt động ngôn luận trong phong trào nữ quyền đã dẫn đến bốn hình thức tổ chức bổ sung: tài trợ cho giáo dục chính trị để tuyển thêm những thành viên mới và đào tạo người tổ chức; xây dựng cơ sở hạ tầng của các tổ chức đại diện cho sự hoạt động theo mạng lưới tại các địa phương và các quốc gia; tiến hành những cuộc đàm phán, vận động hành lang, và cả việc tổ chức tố tụng để làm thay đổi các chính sách công cộng; cuối cùng, là việc phối hợp tổ chức các sự kiện gây áp lực với giới tinh hoa.

Nguyên nhân thúc đẩy sự hình thành của làn sóng nữ quyền thứ hai chính là những hoạt động chính trị tình dục đã xảy ra ở nhiều khu vực, nơi mà đa số những người phụ nữ đã  được bồi dưỡng những kĩ năng thay đổi xã hội. Những cuốn hồi kí và tài liệu lịch sử có thể cung cấp nhiều tư liệu để chứng minh những áp lực cay độc của Uỷ ban Điều phối Sinh viên bất bạo động (Students Nonviolent Coordinating Comitee – SNCC) lên thân phận người phụ nữ, và cả sự loại trừ phụ nữ khỏi vai trò lãnh đạo trong SDS. Thậm chí, còn trơ trẽn hơn nữa, là sự phỉ báng phụ nữ liên tục ở cả hai nhóm. Mary King và Casey Hayden, những nhà hoạt động lâu năm ở cả hai nhóm trên, năm 1964, đã viết một bài báo về phân biệt giới tính trong SNCC(3); và cho đến năm 1965, cũng với những ý tưởng đã được nêu lên trong bài báo ấy, hai tác giả tiếp tục tố cáo thái độ kì thị giới tính của SDS. Bài viết này đã được gửi rộng rãi tới tất cả những nơi phát động phong trào phụ nữ thời bấy giờ, rồi được in lại trên một số tạp chí định kì của tờ Liberation (Giải phóng) một năm sau đó. Bị khích động bởi bản ghi chép này , và cũng  bởi sự đối đầu của chính họ như là nạn nhân của nạn phân biệt giới tính, những người phụ nữ đã tổ chức nhiều buổi hội thảo, thành lập các nhóm giải phóng ở một số thành phố, và triệu tập để tiến hành một vài hội nghị quốc gia với quy mô tương đối nhỏ.

Đồng thời, các nhà lý thuyết nữ quyền cũng đã tạo lập được những điểm tựa bên trong các hiệp hội chuyên ngành và các truờng đại học. Đầu năm 1969, chỉ một vài tháng sau khi Hội nghị năm 1968 bị phá hỏng bởi các phong trào nữ quyền cực đoan, Hiệp hội Ngôn ngữ hiện đại Mỹ (Modern Language Association of America – MLA) đã thành lập Uỷ ban đặc trách nghiên cứu địa vị của phụ nữ trong nghề nghiệp (Comimision on the Status of Women in the Profession – CSWP). Trong niên khóa 1969–70, các nữ học giả MLA đã tổ chức những phiên họp kín của phụ nữ bàn về Ngôn ngữ hiện đại (Women’s Caucus for the Modern Language – WCML); thêm vào đó, các giảng viên đã tiến hành giảng dạy các khóa học thử nghiệm đầu tiên về phụ nữ ở 12 trường đại học. Tại Hội nghị MLA tháng 12 năm 1970, CSWP và WCML đã tổ chức các phiên họp công bố  những bài thuyết trình về phê bình nữ quyền, những tác phẩm của phụ nữ, chương trình giảng dạy văn học, và những vấn đề về địa vị xã hội. Ba tháng sau đó, CSWP và các nhà nữ quyền ở trường Đại học Pittsburg đã đồng tài trợ cho Hội thảo quốc gia đầu tiên về giáo dục nữ quyền. Những diễn đàn mang tính toàn quốc này, cùng với những khóa học ở các trường đại học đã trở thành nơi các nhà nữ quyền có thể suy nghiệm về sự phát triển của các công trình học thuật sẽ đóng vai trò thúc đẩy nhận thức cũng như chính quá trình hoạt động của phong trào.

Từ năm 1968 cho đến hết 1970, phân tích nữ quyền khởi nguồn chủ yếu từ phong trào giải phóng và từ các tổ chức đóng vai trò nâng cao nhận thức (consciousness-raising – CR). Được tiến hành lần đầu tiên vào năm 1968 bởi một vài nhóm giải phóng, CR đã lan rộng rất nhanh ngay sau khi Kathie Sarachild trình bày bản phác thảo hoạt động tại Hội nghị giải phóng phụ nữ tháng 11 năm 1968 (A Program)(4). Trong suốt năm 1969, các nhóm CR đã được khởi động ở khoảng 40 thành phố, và, chỉ tính riêng trong năm 1973, đã có khoảng 100.000 phụ nữ là thành viên của các nhóm CR, tạo nên một thế chủ động về chính trị và về giáo dục lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ(5).

Theo nhà nữ quyền người Anh Juliet Mitchell, CR là sự phỏng theo của “niềm cay đắng cất tiếng nói” (speaking bitterness), một thực tiễn cách mạng của tầng lớp nông dân nghèo Trung Quốc – những người mà, bằng cách cất lên tiếng nói về những nỗi bất công mà họ phải chịu đựng, đã “mang ra ý thức… sự đàn áp gần như vô thức” (Đẳng cấp của phụ nữ/ Woman’s Estate)(6). Trong thực tế, suốt những năm 60 của thế kỷ XX, nhiều nhà hoạt động xã hội đã được đọc về nỗi niềm cay đắng được bày tỏ trong tác phẩm Luận về thực tiễn (On Practice) (1937) của Mao Trạch Đông và Fanshen (1966) của William Hinton(7); hay cũng đã biết đến những cách thức đấu tranh xã hội tương tự như thế được vận dụng ở châu Mỹ Latin. Ví dụ như việc Carol Hanisch đưa tin rằng quân du kích Guatemala đã trao đổi những câu chuyện về đời sống với dân làng, nhằm mục đích chia sẻ những vấn đề có vẻ như rất riêng tư của họ, nhưng cũng đồng thời khuyến khích họ “đoàn kết lại với nhau trong cuộc chiến đấu phá bỏ hoàn cảnh bị đàn áp chung”(8).

Nhưng, được ghi nhận một cách còn rộng rãi hơn nữa là mô hình cây nhà lá vườn (homegrown model) của CR. Như Sarachild đã nói, chúng tôi đang “áp dụng cho những người phụ nữ, và đồng thời cho chính chúng tôi, với tư cách là những nhà tổ chức cuộc tự giải phóng của phụ nữ, một sự thực hành mà nhiều người trong số chúng ta đã từng được biết về những người tổ chức trong phong trào đòi quyền dân chủ ở miền Nam vào đầu thập niên 60” (Consciousness Raising)(9). Bằng cách chia sẻ những vấn đề riêng tư trong cuộc sống của mình, họ đã dần dần đạt đến mối quan hệ gắn bó về mặt tình cảm; bằng cách tập hợp và phân tích những dữ liệu có tính kinh nghiệm, họ đã nhận thức được một cách sâu sắc về sự đàn áp tập thể mà họ phải chịu đựng; và bằng cách thể hiện sự tức giận, họ đã châm ngòi cho hành động. Theo cách nói của Sarachild, “những cảm xúc của chúng tôi (về những trải nghiệm của một người phụ nữ như chúng tôi), sẽ dẫn dắt chúng tôi đi đến cái lý thuyết của riêng chúng tôi, lý thuyết của chúng tôi sẽ dẫn đến hành động của chúng tôi, và những cảm giác của chúng tôi về hành động đó sẽ lại dấn tới lý thuyết mới rồi sau đó sẽ là những hành động mới” (A Program)(10). Các phương thức CR đã khiến cho những người phụ nữ nhận thức rõ được rằng: mọi vấn đề cá nhân thực chất đều có những nguyên nhân xã hội của nó và do đó, cần phải có những giải pháp chính trị. Như vậy, các tổ chức CR, có thể nói, đóng vai trò như là cái tử cung phôi thai ra tri thức và quyền lực.

Các nhà lý thuyết nữ quyền đã mang các tổ chức CR vào khuôn viên các trường đại học và đưa các phương pháp CR vào trong các chuyên ngành học thuật – nơi mà chúng được sử dụng để sản sinh ra những tri thức mới. Suy ngẫm về nguồn gốc ra đời của phê bình văn học nữ quyền, Ann Rosalind Jones viết: “có vẻ như giờ đây, đối với tôi, thật rõ ràng rằng, trong giai đoạn đầu tiên… đặt trong tổng thể của cả tiến trình này… Các nhà phê bình ban đầu đã xem các nhân vật nữ trong những cuốn sách của các tác giả nam giới giống như là cách chúng ta – những kẻ thuộc các tổ chức nâng cao ý thức đang nhìn lẫn nhau, có nghĩa là nhìn họ như là những người phụ nữ đang bị đặt trong hoàn cảnh bị áp bức”(11). Những người khác lại có sự miêu tả các hoạt động thực tiễn theo kiểu CR một cách sống động hơn. Trong lần đầu tiên đọc Tiếng chuông rung (The Bell Jar) – cuốn tiểu thuyết của Sylvia Plath viết về một người phụ nữ đang dần dần bị bóp nghẹt bởi chế độ phụ hệ, Nancy Burr Evans đã xem xét “chủ yếu những tư tưởng và những sự miêu tả gần như trùng khít với chính bản thân tôi”(12), và đã run lên khi “tôi đã nhìn thấy lại chính những trải nghiệm của riêng mình được phản chiếu lại trong một dạng thức hoàn toàn ăn khớp”(13), và sau đó, thêm một bước tiến nữa, là sự nhận thức lại rằng: tất cả những gì được miêu tả lại một cách sinh động như thể chỉ thuộc về vấn đề bệnh lý của người phụ nữ, thực chất, đều là sự áp bức xã hội. Một vài năm sau đó, Carolyn Heilbrun và Catharine Stimption tự miêu tả chính mình như là những “nhà khảo cổ văn bản” (textual archeologists), cố gắng đào bới để tìm lại những mảnh vỡ của những quan điểm về tình dục, về vai trò của giới tính, nguồn gốc của chúng, và cả những hệ tư tưởng biện minh cho chúng, nhằm mục đích chắp nối những kiểu hình của sự kì thị giới tính trong văn học lại với nhau(14).

Các nhà nữ quyền thuộc làn sóng thứ hai đã đào xới lại một tổng thể từ vựng gắn với những quan điểm xã hội – công việc mà hầu hết những người phụ nữ chưa từng đặt ra trước đây. Họ đã truy nguyên lại những từ như: “tính ghét đàn bà” (misogyny) và “chế độ gia trưởng” (patriartry) từ trong truyền thống văn học Anh, được giải thích bằng sự tương ứng với “uy quyền tối cao của nam giới” (male supremacy) và “sự kì thị giới tính” (sexism) trong các diễn ngôn về chủng tộc, không chỉ thế, còn vay mượn những từ như “sự tha hoá” (alienation) và “sự áp bức” (oppression) đối với phụ nữ từ học thuyết Marxist. Những khái niệm này lại được bổ sung thêm bởi những bài phân tích được ghi chép lại trong các ấn phẩm của phong trào: những bản tuyên ngôn được phát hành bởi các nhóm giải phóng, các bản tin gửi tới những thành viên của NOW, những tạp chí định kì được các tập thể biên tập, và những cuốn hợp tuyển được Hội phụ nữ cấp tiến New York xuất bản,… Trong một thời gian ngắn, phê bình tự phát đã dần dần được công thức hóa lại một cách có hệ thống như là sự phê bình học thuật được thực hiện bởi những phương tiện truyền bá (như các nhà xuất bản và các trường đại học) với trọng trách là truyền bá chủ nghĩa nữ quyền tới một số lượng công chúng ngày một đông đảo hơn nữa.

Năm 1970, các doanh nghiệp sách và báo chí thương mại Mỹ bắt đầu xuất bản những cuốn sách có tính lai ghép đã đan dệt tính hoạt động phong trào với tính thuyết giảng học thuật để tạo thành một bản cáo trạng trên diện rộng về sự đàn áp đẳng cấp-giới tính (sex-class oppression). Những cuốn sách bán chạy nhất trong số hơn 12 hợp tuyển đuợc xuất bản trong khoảng những năm 1970 và 1973 là: Tình chị em mãnh liệt (Sisterhood is Powerful) (1970) của Robin Morgan và Người phụ nữ trong xã hội kì thị giới tính: Nghiên cứu về Quyền lực và Sự không có quyền lực (Woman in Sexist Society: Studies in Power and Powerlessness) (1971) của Vivian Gornick và Barbara K.Moran. Một dạng thức lai ghép nữa bao gồm những văn bản có tính di động, những bài báo có tính học thuật và những tác phẩm sáng tạo được viết bởi 35 cộng tác viên và được chia ra thành các mục riêng biệt tập trung vào những vấn đề khác nhau. Gornich và Moran giải thích rằng họ nhằm mục đích hướng đến một sự lai ghép về phân tích, một lối thoát, và một sự thuyết phục đủ mạnh để minh chứng rằng sự đàn áp phụ nữ là kết quả của một hệ thống thâm căn cố đế được duy trì bởi thể chế gia trưởng. Có thể kể đến các tác phẩm nằm trong số những bài tiểu luận được coi là có tính bước ngoặt của cuốn hợp tuyển Người phụ nữ trong xã hội kì thị giới tính như: Các nhà văn nữ và tiêu chí phê bình kép (Women Writers and the Double Critical Standard) của Elaine Showalter, Tại sao không có những nữ nghệ sĩ vĩ đại? (Why are there no great woman artists?) của Linda Nochlin, hay: Tâm lý học kiến tạo nên tính nữ (Psychology Constructs the Female) của Naomi Weisstein; mỗi tác phẩm đều nỗ lực tra vấn cái thể chế của các hệ tư tưởng về giới tính cũng như các đối tượng của nó.

Một dạng thức lai ghép khác là thể loại chuyên khảo mà sự ra đời của nó có thể coi như được khởi nguồn từ tác phẩm Sự bênh vực quyền phụ nữ (Vindication of the Rights of Woman) (1792) của Mary Wollstonecraft, qua Giới tính thứ hai (The Second Sex) (1949) của Simone de Beauvoir, cho tới luận án nổi tiếng của Kate Millett bảo vệ đầu năm 1970 tại Đại học Columbia, Nền chính trị giới (Sexual Politics)Sexual Politics được coi như là một tác phẩm phê bình học thuật bởi nó bao gồm những chương dành để viết về một giả thuyết, một quá trình lịch sử và cả những bình luận về các văn bản văn học được hoàn thiện bằng những chú thích và phần thư mục. Tuy nhiên, nó cũng không hoàn toàn là một tác phẩm phê bình học thuật bởi nó lai ghép lý luận nữ quyền cấp tiến về sự thống trị đẳng cấp – giới tính với việc tường thuật lại cuộc phiêu lưu của de Beauvoir để học hỏi kinh nghiệm về các chuyên ngành. Millett đã định nghĩa nền chính trị giới như là “những sự sắp xếp mà theo đó, một nhóm người bị điều khiển bởi một nhóm người khác”(15); từ đó, bà tiếp tục đi tới việc cho thấy làm thế nào để một loạt những sự sắp đặt ấy – cả về thể chất, kinh tế, xã hội, tâm lý và ý thức hệ tư tưởng – có thể duy trì hệ thống đàn áp của nó.

Các nhà phê bình đánh giá rất cao Người phụ nữ trong xã hội kì thị giới tính, khen ngợi các tác giả vì tài hùng biện và sự lập luận chặt chẽ của họ cũng như khen ngợi cuốn hợp tuyển bởi chính sự kết hợp trong một lối viết vừa có tính học thuật lại vừa có tính sáng tạo và tính tranh luận, cất lên trong một cuộc kêu gọi vì sự thay đổi của xã hội. Tuy vậy, Nền chính trị giới vẫn bị xem như là gốc rễ của một sự chống đối không thể dự đoán trước. Chỉ trích nghiêm khắc nữ tác giả, các nhà phê bình đã phê phán giọng điệu của bà là quá giận dữ, hiếu chiến và có tính tiền phong; không chỉ thế, tạp chí Times, trong một số chuyên đề về Millett, đã gọi đó là “tư tưởng Mao Trạch Đông về sự giải phóng phụ nữ”. Không chỉ thế, cuốn sách còn bị lên án bởi đã lai ghép hoạt động phong trào với các bài thuyết giảng lý luận hàn lâm, trượt dần từ sự phân tích xã hội trong những chương đầu tiên đến phê bình văn học trong những chương sau, và dần dần mở ra một trường hợp mở rộng khó có thể chấp nhận đối với vấn đề áp  bức phụ nữ. Tạp chí Times đã mô tả nó như là “một cuộc bút chiến bị đình chỉ một cách vụng về trong truyền thống học thuật”, và khẳng định: “có thể thấy rất rõ ràng rằng, phạm vi mở rộng của sự tranh luận này làm cho nó rất dễ bị công kích”.

Tại sao những đặc tính của sự lai ghép, của phạm vi, và của những khế ước xã hội đã từng mang lại cho cuốn hợp tuyển trên những lời khen ngợi nhưng lại khiến cho cuốn chuyên khảo của Millett bị chỉ trích nặng nề đến như vậy? Có lẽ là do Nền chính trị giới đã đưa ra một phân tích mạnh mẽ về sự áp bức phụ nữ bằng cách vượt qua những ranh giới có thể nhìn thấy được trong truyền thống giữa phê bình tự phát và phê bình học thuật, giữa những chủ đề của các môn học phổ thông với các chủ điểm chuyên ngành, giữa lớp độc giả chuyên nghiệp hàn lâm và lớp độc giả thương mại. Nghĩa là, không chỉ dừng ở việc chính thống hóa lý thuyết nữ quyền, Millett đã tiến đến một bước xa hơn, xóa bỏ hẳn lằn ranh giữa ngoại vi/chính thống, phổ thông/đặc tuyển. Cuốn sách, bởi vậy, tước bỏ quyền lực của các nhà phê bình: bị thất bại bởi chính tính lai ghép và phạm vi quá mở của nó, họ tự thấy mình không có khả năng đứng ở vị trí trung lập trong các cuộc tranh luận; và do đó, đã tìm cách ngăn chặn những độc giả đang đổ xô đi mua nó. Thế nhưng, chỉ trong vòng vài tháng, Nền chính trị giới đã bán được 15.000 bản và được tái bản đến 4 lần – một sự thâm nhập thị trường đáng kinh ngạc trong thời điểm này.

Từ những mô tả trên, có thể rút ra bốn điểm mấu chốt về các diễn ngôn của làn sóng nữ quyền thứ hai. Thứ nhất, nó gắn chặt phân tích với hành động. Thứ hai, quá trình phân tích cũng giống như một quá trình khảm nạm từ những mảnh nhỏ. Từ kinh nghiệm này đến kinh nghiệm khác, từ sự thấu hiểu này đến sự thấu hiểu khác, từ vấn đề này đến vấn đề khác, các nhà nữ quyền đã dần dần phát triển một nền phê bình về hệ thống áp bức phụ nữ ở Hoa Kỳ. Thứ ba, “phụ nữ như là một đẳng cấp – giới tính bị áp bức trong xã hội” không chỉ đơn thuần là một kết luận có tính khái niệm, mà là một phương hướng chỉ đạo hành động. Mặc dù các nhà nữ quyền sau này phê phán nó chỉ như là một khái niệm mang tính tổng hợp và còn nhiều thiếu sót (thật không may, khái niệm ấy lại chủ yếu chỉ được đưa vào các bài thuyết giảng học thuật), lý thuyết về phong trào xã hội sau này cũng chỉ kết hợp với nó như một thực hành phối âm cần thiết bởi theo họ, nếu như không có những bài thuyết giảng phân tích chính trị, nếu như không có những người phụ nữ hoạt động chính trị, thì cũng không thể có bất cứ một phong trào nào cả. Cuối cùng, mặc dù những cuốn sách lai ghép ấy được xuất bản có tính thương mại khá cao, nó đã làm lan rộng thuyết nữ quyền với lượng độc giả lớn hơn nhiều so với những sự xuất bản chỉ để phục vụ phong trào có thể đạt tới, đồng thời, chúng cũng không có ảnh hưởng gì đến những quy chuẩn học thuật và những giáo trình học tập. Để vượt lên những thách thức ấy, các nhà nữ quyền đầu tiên đã phải tìm cách định hướng những bước mở đầu thông qua việc giành được danh hiệu tiến sĩ nhằm mục đích đảm bảo vị trí giảng viên để tiến hành những nghiên cứu và công việc giảng dạy mà họ mong đợi. Chỉ sau đó, họ mới có thể tạo lập nền phê bình nữ quyền và cho ra đời lý thuyết nữ quyền – cái lý thuyết mà cuối cùng, sẽ có được tầm ảnh hưởng rất lớn trong các lĩnh vực học thuật.

Năm 1970, nhà xuất bản Know phát hành một ấn phẩm gây nhiều tò mò: được sao chụp trên một chồng những trang giấy có thể tháo rời là những giáo trình dạy học cho khóa 17 trong chương trình học về phụ nữ, năm học 1969-70, đi kèm với một bàigiới thiệu ngắn gọn của Sheila Tobias. Với giới thuyết này, Sheila đã đặt những bài giảng ấy vào “trong một lĩnh vực mà cuối cùng cũng đã có thể đuợc gọi là Nghiên cứu phụ nữ” (Female Studies 1). Hình thức xoàng xĩnh và lượng phát hành tương đối nhỏ ấn bản đã gần như không mở ra được bất cứ một điều gì theo sau nó. Tuy nhiên, trong năm năm tiếp theo, 9 tập tiếp theo của Female Studies được xuất bản, trong đó có 4 ấn phẩm là của nhà xuất bản Know và 5 ấn phẩm còn lại là của nhà xuất bản Feminist (được thành lập năm 1970 bởi Florence Howe, Paul Lauter và nhiều người khác). Loạt tài liệu theo chương trình giảng dạy này được phổ biến rất rộng, đã phát ra tia lửa châm ngòi cho sự phát triển của nghiên cứu nữ quyền.

So với các lĩnh vực mới khác, quá trình hệ thống hóa của nghiên cứu nữ quyền có được sự tiến triển với một tốc độ đáng kinh ngạc. Sau một vài khóa học đầu tiên được tiến hành trong hai năm 1969-70, việc đưa lý thuyết vào hệ thống các trường đại học được nhân lên nhanh chóng đến mức chỉ ước tính trong một vài năm tiếp theo, đã có đến: 103 khóa học với 4 chương trình vào tháng 12 năm 1970, 600 khóa học với 17 chương trình vào tháng 12 năm 1971, và 4.500 khóa học với 75-110 chương trình trong niên khóa 1972-73. Trước thành công của những bước phát triển tiếp theo này, thật khó mà có thể tưởng tượng được rằng những người giảng dạy các khóa học như thế đã từng gần như không có được địa vị cũng như không có được bất cứ một nguồn tài trợ nào. Đó hầu hết là những trợ giảng hay trợ lý giáo sư – những người đã bất chấp vị thế có vẻ tầm thường của họ để hướng đến những chủ đề bị các giảng viên chính coi là không đáng để ý tới. Họ cũng chưa từng đặt ra được một cái tên riêng cho dự án liều lĩnh này – nó có nhiều cách gọi khác nhau: Nghiên cứu tính nữ/ phụ nữ hay Nghiên cứu nữ quyền (female, women’s, feminist studies); và song song với tình trạng ấy, họ cũng không có được một sự mô tả chính xác đủ để thuyết phục các đồng nghiệp rằng: cái mà họ đang theo đuổi có thể trở thành một lĩnh vực riêng biệt, cần được tách riêng xem xét trong nghiên cứu học thuật. Không chỉ thế, họ còn thiếu thốn các cơ sở vật chất ở địa phương, ví dụ như hệ thống thư viện; thiếu cả những người có khả năng đứng ra tổ chức các khóa học, các hội nghị có tính toàn quốc cũng như xuất bản các ấn phẩm.

Tuy nhiên, trong các lớp học và các thư viện, những giáo viên này đã bắt đầu công cuộc khai sáng cho người học về quyền sống của người phụ nữ và phê phán những tri thức đã được thừa nhận rộng rãi là chân lý. Các khóa học về nữ quyền gắn liền với những văn bản như: Căn phòng riêng (A Room of One’s Own) (1929) của Virginia Woolf, Giới tính thứ hai (The Second Sex) (1949) của de Beauvoir, Thế kỷ của tranh đấu (Century of Struggle) (1959) của Eleanor Flexner, Sự huyền bí của tính nữ (Ferminine Mystique) (1963) của Friedan, Bay lên từ bệ phóng (Up from the Pedestal) (1968) của Aileen Kraditor, Nghĩ về phụ nữ (Thinking about Women) (1968) của Mary Ellmann, Phụ nữ và Luật pháp (Women and the Law) (1969) của Leo Kanowitz, Phép biện chứng của giới tính (Dialectic of Sex) (1970) của Shulamith Firestone, Nền chính trị giới (Sexual Politics) (1970) của Millett, Ai cũng đã dũng cảm (Everyone Was Brave) (1971) của William O’Neil, cùng với những hợp tuyển như: Tình chị em mãnh liệt (1970) và Người phụ nữ trong xã hội kì thị giới tính (1971). Những văn bản này đã đưa ra được một cách tiếp cận có tính khái quát với vấn đề sự áp bức phụ nữ: đó là những tự truyện riêng tư kết hợp với những bình luận chính trị trong tác phẩm của Woolf; một bức tranh toàn cảnh về lịch sử trong các tác phẩm của Flexner, Kraditor và O’Neil; thêm vào đó là ngòi bút phê bình sâu rộng trong những cuốn sách của de Beauvoir, Ellmann, Kanowitz, Fierstone, Neill cũng như trong các hợp tuyển. Bằng cách đọc các văn bản ấy, kết hợp đồng thời với việc nghiên cứu về nữ quyền đã bắt đầu xuất hiện trên các tạp chí, những giáo viên đã dần dần tạo dựng được cốt lõi tri thức của lĩnh vực nghiên cứu này – nó vừa thuộc về các vấn đề xã hội có tính liên ngành, vừa gắn với sự phân tích riêng của mỗi chuyên ngành.

Các nhà nữ quyền trong nghiên cứu văn học, cũng giống như thế hệ đàn chị của họ ở các chuyên ngành khác, đã bắt đầu bằng những dự án khai phá và phê bình trong việc phát triển lý thuyết về những phương pháp lai ghép chéo ở cả học thuật và phê bình. Bước đầu tiên được tiến hành trong việc xác định lại vị trí của người phụ nữ trong văn học là phải tìm kiếm lại ở các thư viện và các kho lưu trữ những cuốn sách viết về cuộc sống của người phụ nữ, và hơn thế, ở cả trong những kho lưu trữ thư từ. Vi dụ như, trong lịch sử và văn hóa Anh, họ đã tìm thấy những tài liệu như: Các nhà văn nữ (Women Writers) (1892) của J. Halmiton, Phụ nữ trong xã hội Anh từ thời trung cổ đến thời hiện đại (Women in English Life from Medieval to Modern Times) (1896) của Georgiana Hill, Cuộc sống lao động của người phụ nữ thế kỷ 17 (Working life of Women in the seventeenth Century) (1919) của Alice Clark, Các nữ tiểu thuyết Anh (English Woman Novelist) (1929-30) của Joyce M. Horner, Tiểu thuyết bình dân Anh 1770-1800 (Popular novel in England 1770-1800) (1932) của J.M.S. Tompkin, Những phản đối đầu tiên đối với tiểu thuyết Anh (Early Oppsition to the English novel) (1943), Cái xương sườn vẹo (Crooked Rib) (1944) của Frances Lee Utley, Phụ nữ như là một lực lượng trong lịch sử (Woman as Force in History) của Mary Beard (1947), Bút pháp phái nữ: Những nữ tiểu thuyết giai đoạn sau 1744-1818 (Female Pen: The later Women Novelists, 1744-1818) (1948) của B.G. MacCarthy, và Giáo lý dành cho những quý bà thời Phục Hưng (Doctrine for the Lady of Renaissance) (1956) của Ruth Kelso. Với những cuốn sách này, họ tìm lại được những định kiến đã được coi là thiêng liêng và cả sự định hướng về cuộc sống trong gia đình đối với người phụ nữ trung cổ; việc học tập và sáng tác văn học của những nữ quý tộc thời Phục hưng; sự lan rộng của việc nâng cao trình độ học vấn cho nữ giới; những chuyên luận chính trị về phụ nữ thế kỷ 18; các nền văn hóa bình dân và tinh hoa của phụ nữ thế kỷ 19; các nhà hoạt động đã đấu tranh cho quyền bầu cử của phụ nữ, những người bênh vực cho việc kiểm soát quyền sinh sản, các tổ chức công đoàn, và cả các nhà giáo dục ở Anh và ở Mỹ.

Các bước tiếp theo được thực hiện một cách đồng thời. Các nhà nữ quyền biên soạn những cuốn thư mục, in ấn và xuất bản những văn bản đã từng không được phép in và chưa từng được xuất bản của các tác giả nữ; đồng thời, viết những bài báo và những cuốn sách mà trong mỗi tác phẩm kiểu này sẽ tiến hành việc định giá lại văn bản của các nhà văn nữ trong sự phê phán thái độ kì thị giới tính trong xã hội và trong văn học. Tính trung bình, cứ mỗi năm lại có hai cuốn sách viết về phụ nữ Anh được xuất bản: Sự dị thường đơn độc (Singular Anomaly) (1970) của Vineta Colby, Sự quyến rũ và sự phản bội (Seduction and Betrayal) (1970) của Elizabeth Hardwick, Maria Edgeworth và Jane Austen và Cuộc đấu tranh tư tưởng (Jane Austen and the War of Ideas) (1972) của Marilyn Butter, Khả năng sáng tạo của phụ nữ (Female Imagination) (1972) của Patricia Meyer Spacks, Chịu đựng và tiếp tục chịu đựng (Suffer and be still) (1972) của Martha Vicinus, Ẩn sau Lịch sử (Hidden from History) (1973) của Sheila Rowbotham, Mối quan hệ giữa Phụ nữ trong xã hội thời Victoria và tiểu thuyết (Relative Creatures: Victorian Women in Society and the Novel) (1974) của Francoise Basch, Được viết bởi phụ nữ (By a Woman writt) (1974) của Joan Goulianous, và Những người phụ nữ của văn chương (Literary Woman) (1976) của Ellen Moers. Việc nghiên cứu học thuật và phê bình đã mang lại những nền tảng có tính kinh nghiệm cho sự ra đời của những cuốn sách, đưa ra được những khả năng mới về đường ranh giới của lãnh thổ văn học; ví dụ như vấn đề thiên tính nữ, nữ quyền và các truyền thống về người phụ nữ trong Nền văn học của riêng họ (A Literature of Their Own) (1977), hay cái nhìn ngược trở lại đối với các tác giả nam giới trong cuốn Người đàn bà điên nơi gác mái (Madwoman in the Attic) (1979) của Sandra M.Gilbert và Susan Gubar.

Một đề án khác được thực hiện trong nghiên cứu văn học nữ quyền là phơi bày những hình thức của sự phân biệt giới tính đã làm cơ sở cho việc xây dựng những chuẩn mực và những quy tắc lấy nam giới làm trung tâm trong nghiên cứu chuyên ngành. Đi tìm vết tích của thái độ kì thị phụ nữ trong văn học qua các thời đại, chuyên luận Người bạn đời phiền phức: Lịch sử sự kì thị phụ nữ trong văn học (Troublesome Helpmate: A History of Misogyny in Literature) (1966) của Katherine M. Roger đã chỉ ra rằng: “những biểu hiện của lòng thù hận, nỗi sợ hãi, hay sự khinh miệt đối với nữ giới”(16) đã xuất hiện trong hầu như ở tất cả các thể loại từ truyền miệng cho tới văn học viết. Tập trung vào phân tích nền triết học và chính trị Đức, Thái độ gia trưởng (Patriarchal Attitudes) (1970) của Eva Figes đã thăm dò những mối dây liên hệ giữa ham muốn và sự thống trị, kì thị giới tính và kì thị chủng tộc, sự chuyên chế tuyệt đối và những giải pháp đối mặt. Khảo sát những kiến tạo về khuôn mẫu giới tính thông thường đã được tiêm nhiễm vào phê bìnhvăn học hiện đạiSuy tư về phụ nữ (Thinking about women) (1968) của Mary Ellman nhấn mạnh rằng các nhà phê bình nam giới đã đối xử với những cuốn sách của cả các nhà văn nam và các nhà văn nữ cứ như thể chúng cũng chính là đàn ông hay phụ nữ; rằng họ đã “lao vào vào phê bình, trong niềm hạnh phúc lớn lao nhất của nó, với một thước đo trí tuệ về ngực và hông”(17), hay ngược lại, đưa ra giả định rằng tâm hồn văn chương nam giới cũng “hoạt động chủ yếu như một dương vật”(18). Có thể kể ra một trong số rất nhiều ví dụ tương tự như thế là lời tuyên bố của Athony Burgess, rằng, ông “không có được một chút khoái cảm nào” khi đọc những áng văn xuôi của Jane Austen, bởi theo ông, nó “thiếu một lực đẩy mạnh mẽ của nam tính, một vẻ đẹp tượng trưng gần như đã trở thành quy phạm, và một nội dung tri thức bạo liệt”.

Cách tiếp cận thường thấy nhất đối văn học để thấy được thái độ kì thị giới tính là cách tiếp cận với cái gọi là “hình tượng người phụ nữ” (images of women), nhưng sau đó, lối phê bình này đã bị coi thường, bị xem như là phương thức của một thứchủ nghĩa biểu hiện ngây thơ. Tuy nhiên, hầu hết các nhà nữ quyền vẫn nhìn những hình tượng như là những biểu hiện của các quy ước về giới tính – cái mà đến lượt nó, lại quay trở lại củng cố cho quyền lợi của tầng lớp cầm quyền. Điều này có thể được làm sáng tỏ khi xem xét ba tiểu luận trong cuốn Hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết: những quan điểm nữ quyền (Images of Women in Fiction: Feminist Perspectives) (1972) do Susan Koppelman Cornillon chủ biên. Trong Một nữ anh hùng có thể làm gì? (What can a Heroine do?) cũng như trong Tại sao phụ nữ không thể viết? (Why woman can’t write?), Joanna Russ đã thử đảo ngược giới tính của nhân vật để chứng minh rằng thực chất, mọi cốt truyện đều mang bản chất giới tính: “Một cô gái trẻ ở Minnesota tìm thấy thiên tính nữ trong mình bằng cách giết chết một con gấu” và “Một chàng trai trẻ – kẻ đã không khôn ngoan chút nào khi đặt toàn bộ hi vọng thành công của mình vào công việc kinh doanh để rồi, trước khi đạt đến sự đầy đủ của cá nhân, anh ta đã đánh mất đi nam tính của chính mình, và cuối cùng, kết thúc như một kẻ bị thiến hoạn loạn thần kinh và cô đơn”(19). Trong Sự hình thành nhân tính: Hình thức và nội dung tâm điểm của tiểu thuyết nữ quyền mới (Humanbecoming: Form and Focus in the Neo-Feminist Novel), Ellen Morgan đã đặt loại tiểu thuyết điển hình (thường kể về sự phát triển của một nhân vật nữ ban đầu như là một cô gái ngang ngược bướng bỉnh nhưng rồi cuối cùng cũng phải tuân theo những quy chuẩn về nữ tính) trong thế đối lập với một phiên bản nữ quyền mới sẽ viết về cô trong “sự nỗ lực tiến tới theo đuổi mục tiêu của một con người trọn vẹn”(20) thông qua cuộc đấu tranh quyết liệt với sự kì thị giới đã được chính thống hóa. Đích đến của việc phê bình theo xu hướng trên, như Lillian Robinson và Lise Vogel lập luận trong Chủ nghĩa hiện đại và lịch sử (Modernism and History), “không phải là để chứng minh rằng văn học không buộc phải truyền đạt các ý đồ tư tưởng, mà hơn thế, cho thấy rằng mọi tư tưởng đều có một nguồn gốc mang tính giai tầng và thực hiện chức năng phân cấp”(21) (có thể đơn giản thấy rõ điều ấy qua một ví dụ cụ thể như chức năng của việc duy trì các thủ tục nhập quốc tịch).

Đúng như một bài viết về nữ quyền trên College English đã chỉ ra, sự nỗ lực để hướng đến những mục tiêu trên không hề đơn giản. Trong tiểu luận Phê bình nữ quyền mới (The new Feminist Criticism), Annis Pratt đã tóm tắt bốn nhiệm vụ chính của phê bình nữ quyền: nhận thức lại những tác phẩm của các nhà văn nữ; “đánh giá các phương diện hình thức của văn bản”(22); hiểu được văn học đã phát hiện và thể hiện được những gì về nam giới và nữ giới trong những bối cảnh kinh tế – xã hội mà họ đang sống; và cuối cùng, diễn tả được “sự trình bày đầy tính hoang tưởng về mỗi cá nhân phụ nữ trong văn học”(23). Nhưng, trong một tiểu luận khác: Tồn tại trong khuôn khổ: Phê bình cấp tiến và Quan điểm nữ quyền (Dwelling in Decencies: Radical Critism and the Feminist Perspective), Lillian Robinson lại bắt bẻ rằng, thực chất, Pratt mới chỉ đơn thuần nhắc lại những phương thức tư sản của lối phê bình tiểu sử, phê bình hình thức, mang đặc trưng xã hội học và hướng tới nguyên mẫu. Theo bà, sử dụng lại những tiêu chí ấy sẽ khiến các nhà phê bình nữ quyền bị sa vào chính cái cấu trúc của sự định giá mà họ muốn tháo dỡ; điều ấy buộc họ phải thừa nhận rằng: một văn bản mang tính bá quyền hiểm độc bao giờ cũng được trình bày trong một hình thức đẹp đẽ còn một văn bản nữ quyền “có tính hữu ích về phương diện lịch sử” lại thường không có được “sự hoàn hảo về mặt thẩm mĩ”(24).

Khi theo đuổi những hướng đi của sự giác ngộ và phê bình, các nhà phê bình văn học nữ quyền đã bắt đầu nhìn xuyên suốt được những tri thức chuyên ngành đối với những mẫu hình kiến thức mà các học viên thường lựa chọn để giải thích và đánh giá các văn bản. Vào thời điểm đó, nghiên cứu văn học gần như đã được gắn cố định với hai mô hình cơ bản: chủ nghĩa biểu hiện và phê bình Mới. Chủ nghĩa biểu hiện, một hướng phê bình mở nhằm mục đích dẫn tới những phương thức và những tư tưởng thuộc những thể loại diễn ngôn khác như lịch sử, xã hội học, tâm lý học và huyền thoại, đã cho phép các định kiến về giới có thể thẩm thấu và dần dần tràn ngập trong những thực hành phê bình. Carolyn Heilbrun và Catherine Stimpson tuyên bố rằng họ đã được dạy dỗ để đọc: “tất cả các tác phẩm dưới ánh sáng của những chuẩn tắc của riêng những nhà phê bình nam giới… Chúng ta đã không chỉ lờ đi sự vắng mặt (của những văn bản và những kinh nghiệm của riêng nữ giới)… Chúng ta đã không chỉ cố bào chữa rằng sự hi sinh của người phụ nữ chỉ như là một cái gì đó có tính tự nhiên,… mà chúng ta còn đã nghiễm nhiên giả định rằng bất cứ một tác giả nam giới nào cũng đều đang phải viết theo những tín điều mà Freud đã xác định đối với các nhà phê bình nam giới cũng như đối với những người thầy đã dạy chúng ta”(25).

Đối lập với những đường ranh giới mập mờ và những thực hành ngập tràn về giới tính của chủ nghĩa biểu hiện, phê bình Mới ngăn cản những diễn ngôn khác đặt chân vào phạm vi của riêng nó cũng như những phương thức khắt khe được nó ứng dụng. Các học viên được yêu cầu phải chọn một văn bản tuy ngắn nhưng phức tạp (tốt hơn cả là một bài thơ), thực hành một phương pháp đọc kĩ lưỡng, và phải đánh dấu được những điểm đặc trưng đã đưa đến tính duy nhất về cấu trúc của nó. Họ không có bổn phận phải quy văn bản ra thành bất cứ một cái gì ngoài văn bản nữa, cho dù là cuộc đời tác giả, bối cảnh xã hội, hay những đề tài được tóm lược lại từ những diễn ngôn khác; họ cũng không cần phải nêu lên những quan điểm riêng, cảm xúc riêng cũng như những cách đánh giá của riêng mình. Như Selma R. Burkorn đã giải thích, các giáo sư giảng dạy đã hướng dẫn cô “chỉ đề cập đến những yếu tố có thể xác minh được theo lối kinh nghiệm và có thể được phân tích một cách hợp lí” trong văn bản, “để không chỉ có được tính khách quan mà còn kiểm soát được văn bản; và nếu không thực hành được sự loại trừ ấy, sẽ chỉ đơn thuần thu được toàn những phản ứng chủ quan”(26). Đi thẳng vào vấn đề trung tâm của kiểu hình phê bình này, Fraya Katz-Stoker đã chỉ ra rằng các nhà phê bình mới đã coi “văn học như là một thế giới được tạo lập theo một cách riêng tư tuyệt đối, độc lập hoàn toàn với bối cảnh xã hội và chính trị của nó”(27) và phân tích những văn bản như thể chúng cũng giống như là bong bóng trôi nổi trên bầu trời Platon thanh khiết không một gợn mây”(28). Ngược lại, “phê bình nữ quyền”, bà tuyên bố, phải là “một phương pháp tiếp cận văn học có tính duy vật – nó nỗ lực bằng mọi cách loại bỏ những ảo tưởng hình thức luận đã khiến cho văn học bị tách rời khỏi phần còn lại của thực tại”(29). Tương tự như vậy, Lillian Robinson và Lise Vogel chỉ trích chủ nghĩa hình thức đã đặt “sự nhấn mạnh quan trọng hơn cả vào tính tự trị của mỗi tác phẩm nghệ thuật và những đặc trưng hình thức của nó, vào tính chất độc lập của con mắt phê bình”(30). Cương lĩnh về thẩm mỹ hóa văn học và huyền bí hóa tri thức của chủ nghĩa hình thức bởi thế mà rất ăn khớp với cái hệ thống rộng lớn hơn của sự bất công trong phân biệt đối xử.

Việc đánh giá lại vị trí của người phụ nữ trong lịch sử văn học và phơi bày sự kì thị giới tính trong văn học, phê phán những mẫu hình cứng nhắc và xây dựng những mô hình mang tính nữ quyền, đã chuẩn bị sẵn sàng cho hướng đi của các lý thuyết nữ quyền sẽ định hình cho những sự hình thành chủ đề, xã hội và tri thức trong thập niên 80 của thế kỷ XX có thể kết hợp được với nhau.

Tóm lại, kể từ năm 1972, có bốn ảnh hưởng mạnh mẽ đã thúc đẩy hơn nữa xu hướng chuyên môn hóa trong nghiên cứu nữ quyền. Thứ nhất, các trường đại học được xây dựng với nhiều chuyên ngành khác nhau. Các nhà điều hành cấp phát cơ sở vật chất, giao thẩm quyền quyết định cho các khoa cũng như phân phát nội dung giảng dạy tới các phòng ban chủ đạo và coi nghiên cứu nữ quyền như là chương trình học không chỉ không được ưu tiên mà còn bị phụ thuộc vào những chuyên ngành cơ sở của các khoa. Trong nhiều thập niên, các chương trình giảng dạy chỉ mang tính chắp ghép: kể từ đào tạo chuyên ngành được bổ sung bởi một vài khóa học trọng tâm tới việc đào tạo bên ngoài đại học. Dù vậy có thể thấy, là kết quả của việc xây dựng cấu trúc trường đại học, nghiên cứu nữ quyền, tuy chậm chạp, nhưng đã từng buớc thực hiện được những mục đích liên ngành của nó.

Thứ hai, có hai xu hướng đồng quy đã thúc đẩy sự ra đời của nghiên cứu chuyên ngành những năm 70 (thế kỷ XX). Các trường đại học nâng cao yêu cầu xuất bản tài liệu đối với các phân khoa. Các ấn phẩm thương mại đã bị thu hồi lại bởi chính những tập đoàn truyền thông đã từng kì vọng chúng sẽ tạo ra những lỗ hổng thị trường, bằng cách che giấu và tiết lộ về những cuốn sách, và phát sinh lợi nhuận từ việc câu khách qua nhan đề của mỗi cuốn sách. Chịu áp lực của đế chế truyền thông, các ấn phẩm đại học đã cố gắng bảo toàn vốn tri thức của họ bằng cách xuất bản những công trình đạt tới tầm tiêu chí học thuật chính xác nhất và đề cập đến những chủ đề chuyên ngành quan trọng nhất. Kết quả là, họ đã xuất bản khá nhiều công trình nghiên cứu nữ quyền trong khoảng những năm từ 1970 đến 1980, trong số đó có hơn 12 cuốn thuộc lĩnh vực nghiên cứu văn học và có đến gấp hai gấp ba lần lượng sách trong các lĩnh vực khác.

Thứ ba, vì cần những nơi hội họp bàn luận hợp pháp cho những lĩnh vực mới, các nhà nữ quyền đã lập nên những tạp chí học thuật đầu tiên vào năm 1972. Bằng cách đó, ngay lập tức, họ đã phát triển được những chuyên ngành nghiên cứu cụ thể: có thể thấy sự chuyên sâu về lịch sử nổi bật trong Nghiên cứu nữ quyền (Feminist Studies) của Ann Calderwood, sự nghiên cứu chuyên sâu về văn học trong Nghiên cứu của phụ nữ (Women’s Studies) của Wendy Martin, nghiên cứu về thế kỷ 17 và 18 trong Bản tin Marry Wollstonecraft (Mary Wollstonecraft) (mà sau này được đổi tên thành Phụ nữ và văn học – Women and Literature) của Janet Todd Florence Rush, các dữ liệu thư mục trong Bản tóm tắt các công trình nghiên cứu của phụ nữ (Women’s Studies Abstracts), và những nguồn cung cấp chương trình từ Điểm sách nghiên cứu của phụ nữ (Women’s Studies Newsletter) của nhà xuất bản Nữ quyền. Mặc dù gần như không tham gia vào cái sân khấu nghiên cứu sôi nổi ấy, năm 1975, Signs – một ấn phẩm có tính liên ngành – đã tự khẳng định mình như là một tạp chí khắt khe nhất. Những phương pháp kiểm soát chất lượng nội dung của nó, cùng với việc thông qua những định dạng hình thức của nó (một bài báo, một tiểu luận phê bình, một bộ phận trích dẫn), đã thực sự chuyển hướng sự phê bình theo lối chính trị – xã hội của lớp độc giả thông thường sang lối phê bình học thuật trong nghiên cứu chuyên ngành.

Cuối cùng, mô hình phát sinh tri thức mới trong nghiên cứu nữ quyền là một mạng lưới những quy tắc, những bản sắc xã hội và những ý thức hệ chính trị khác nhau đang đan chéo lẫn nhau. Mỗi trục ấy tạo sinh ra những chuyên ngành của riêng mình và cũng đột ngột làm biến đổi những chuyên ngành mới ở bất cứ một giao điểm nào của nó với các lĩnh vực khác. Ví dụ như, hãy xem xét việc nghiên cứu chủ đề chuyển đổi giới tính: nó có thể nảy sinh trong chuyên ngành lịch sử y học hay xã hội học (những chuyên khoa lấy nguyên tắc xã hội làm cơ sở). Không chỉ thế, nó cũng có thể làm phát sinh một hướng nghiên cứu về chuyển đổi giới tính ở các cộng đồng Mỹ gốc Phi (những chuyên ngành dựa trên bản sắc), hoặc nghiên cứu một lễ kỷ niệm cuộc sống riêng tư hay là phê bình về chính sách công cộng (những chuyên ngành lấy chính trị làm nền tảng).

Tóm lại, khi đã xây dựng được một nền tảng giáo dục cao hơn để bắt đầu tổ chức việc thực hành sản sinh tri thức, các nhà nữ quyền đồng thời cũng sẽ có thể giành được lợi thế trong việc cung cấp những nguồn lực cho công việc nghiên cứu và giảng dạy của họ. Khi các ngành nghiên cứu nữ quyền thu hút được lượng học giả nhiều hơn, chúng đồng thời cũng sản sinh ra được lượng tri thức lớn hơn – hệ thống dần dần trở nên chi tiết hơn bởi ý thức hệ chính trị, bản sắc xã hội và sự nghiên cứu chuyên ngành. Để có thể tổng hợp được những tri thức tách biệt và đôi khi trái ngược nhau, các nhà nữ quyền đã xây dựng hệ thống lý thuyết tương ứng với các chủ điểm xã hội và với hệ thống xã hội; những lý thuyết này, đến lượt nó, lại được phê bình bởi các nhà nữ quyền lấy nền tảng từ những lĩnh vực chuyên ngành khác và dựa trên giả định hoặc của chủ nghĩa hiện thực, hoặc của chủ nghĩa cấu trúc, hoặc các nhà hậu cấu trúc… Những bài phê bình ấy lại châm ngòi cho một cuộc siêu tranh luận về vấn đề làm thế nào để sản sinh được nhiều hơn nữa sự phê bình cũng như lượng lý thuyết tương ứng mà, một khi chúng được sản sinh, sẽ lại khiến cho các nhà học giả nữ quyền bị quay cuồng trong một mớ những thứ tương tự nhau. Những bước phát triển này đã dần hoàn thiện sự chuyển đổi của các diễn ngôn nữ quyền: các nhà nữ quyền của phong trào đã nhìn sự thay đổi xã hội như là một mục đích thực tiễn có thể đạt được thông qua sự phân tích và hành động chung, không chỉ thế, các học giả nữ quyền còn ghi lại nó như là vấn đề chủ đề của nghiên cứu học thuật. Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, “những vấn đề xã hội” đã bước đầu được đặt ra, chính ở vị trí mà các lý thuyết xung đột lẫn nhau, những bảng phân loại sơ lược bị dỡ bỏ, và những tri thức phức tạp bị sụp đổ.

Thế nhưng, cũng ngay từ năm 1971, Lillian Robinson đã có linh cảm về những gì mà các nhà nữ quyền sẽ phải vượt qua: “Tôi không đặc biệt quan tâm đến việc chủ nghĩa nữ quyền đã trở thành một bộ phận đáng kể của phê bình học thuật như thế nào; tôi quan tâm nhiều hơn đến việc các nhà phê bình nữ quyền sẽ trở thành một bộ phận hữu ích của phong trào phụ nữ. Trong cuộc đấu tranh giải phóng của chúng ta, lưu ý của Marx về các triết gia cũng có thể được áp dụng khi nói về các nhà phê bình: cho tới bây giờ, họ mới chỉ dừng lại được ở việc diễn giải thế giới và đưa ra các quan điểm đúng đắn để thay đổi nó”(31). Đúng như Alice Echols sau này đã nhận xét trong Dám tồi tệ (Daring to be bad) (1989), lời cảnh báo ấy của Lillian được cất lên trong một thời khắc then chốt, khi trọng tâm của chủ nghĩa nữ quyền đang dịch chuyển dần từ đấu tranh đối kháng sang sự giáo hóa phụ nữ, từ hoạt động chính trị sang sự tra vấn trí tuệ, từ những phân loại có tính tích hợp sang những dạng thức khác. Việc thể chế hoá/chính thống hóa không chỉ làm nền tảng cho sự phát triển nở rộ của các ngành học thuật, phê bình và lý thuyết nữ quyền từ sau năm 1973; mà đồng thời còn là sự chuẩn bị bước đầu cho một dự án chính trị có tính nổi loạn.

Đặng Thị Thái Hà dịch

Nguồn: Ellen Messer-Davidow, “Feminism Theory and Criticism: 1. From Movement Criticque to Discourse Analysis”, in John Hopkin Guide to Literary Theory and Criticism, Ed. by Michael Groden, Martin Kreiswirth, and Imre Szeman, Baltimore: John Hopkin University Press, 2004, copyright 2005 – 2012.

_____________________

(1) Margaret Mead and Frances Balgley Kaplan: American Women: The Report of the President’s Commission on the Status of Women, Scribner, 1965. (Mọi chú thích không ghi gì thêm đều do người dịch chú dựa theo danh mục tài liệu tham khảo của tác giả)

(2) Betty Friedan, The Feminine Mystique, Bantam Doubleday Dell Publishing Group Inc, 1963.

(3) Casey Hayden and Mary King: “Sex and Caste Liberation”, Liberation, vol.10, 1966.

(4) Kathie Sarachild: A Program for Feminist ‘Consciousness Raising’, Crow, 1968.

(5) Joan Cassell: A Group Called Women: Sisterhood and Symbolism in the Feminist Movement, McKay, 1977; Anita Shreve: Women Together, Women Alone: The Legacy of the Consciousness-Raising Movement, Viking Adult, 1989 (ở đây, tác giả tổng hợp thông tin từ các công trình của Cassel và Shreve).

(6) Juliet Mitchell: Woman’s Estate, Penguin, 1971, p.62.

(7) Kathie Sarachild: Consciousness-Raising: A Radical Weapon [1973], in Feminist Revolution, Redstockings Inc, 1975, p.146, 149

(8) Carol Hanisch: An Experience with Worker Consciousness Raising [1968], in Feminist Revolution, Redstockings Inc, 1975, p.184.

(9) Kathie Sarachild: Consciousness-Raising: A Radical Weapon [1973], in Feminist Revolution, Redstockings Inc, 1975, p.145

(10) Kathie Sarachild: A Program for Feminist ‘Consciousness Raising’, Crow, 1968, p. 274

(11) Ann Rosalind Jones: Imaginary Gardens with Real Frogs in Them: Feminist Euphoria and the Franco-American Divide, 1993, p.69

(12) Nancy Burr Evans: The Value and Peril for Women of Reading Women Writers, Cornillon, p.311

(13) Nancy Burr Evans: The Value and Peril for Women of Reading Women Writers, Cornillon, p.309

(14) Carolyn Heilbrun and Catharine Stimpson: Theories of Feminist Criticism: A Dialogue Feminist Literary Criticism: Explorations in Theory, Josephine Donovan, 1975, p.69.

(15) Kate Millett: Sexual Politics, Doubleday, 1970, p.23

(16) Katharine M. Rogers: The Troublesome Helpmate: A History of Misogyny in Literature, University of Washington Press, 1973, p.xii

(17) Mary Ellmann: Thinking about Women, Macmillan Publishers Limited, 1968, p.29

(18) Mary Ellmann: Thinking about Women, Macmillan Publishers Limited, 1968, p.13

(19) Joana Russ: “Why woman can’t write?”, in Images of Women in Fiction: Feminist Perspectives, Susan Koppelman Cornillon ed., Bowling Green University Popular Press, 1972,  p.3

(20) Ellen Morgan: “Humanbecoming: Form and Focus in the Neo-Feminist Novel”, in Images of Women in Fiction: Feminist Perspectives, Susan Koppelman Cornillon ed., Bowling Green University Popular Press, 1972,  p.185

(21) Lillian Robinson and Lise Vogel: “Modernism and History”, in Images of Women in Fiction: Feminist Perspectives, Susan Koppelman Cornillon ed., Bowling Green University Popular Press, 1972,  p.298

(22) Annis Pratt: “The New Feminist Criticism”, College English, Vol. 32, No. 8 (May, 1971), p. 873

(23) Annis Pratt: “The New Feminist Criticism”, College English, Vol. 32, No. 8 (May, 1971), p. 877

(24) Lillian Robinson: “Dwelling in Decencies: Radical Criticism and the Feminist Perspective”, College English, Vol. 32, No. 8 (May, 1971), p. 888

(25) Carolyn Heilbrun and Catharine Stimpson: Theories of Feminist Criticism: A DialogueFeminist Literary Criticism: Explorations in Theory, Josephine Donovan, 1975, p.65.

(26) Selma R. Burkom: Feminist Criticism: Humanism Feminist Literary Criticism: A Symposium, Karen W. Borden and Fauneil J. Rinn, et al,  Diotima Press, 1974, p.17

(27) Fraya Katz-Stoker: The Other Criticism: Feminism vs. Formalism, in Images of Women in Fiction: Feminist Perspectives, Susan Koppelman Cornillon ed., Bowling Green University Popular Press, 1972, p.321

(28) Fraya Katz-Stoker: The Other Criticism: Feminism vs. Formalism, in Images of Women in Fiction: Feminist Perspectives, Susan Koppelman Cornillon ed., Bowling Green University Popular Press, 1972,  p.316

(29) Fraya Katz-Stoker: The Other Criticism: Feminism vs. Formalism, in Images of Women in Fiction: Feminist Perspectives, Susan Koppelman Cornillon ed., Bowling Green University Popular Press, 1972,  p.326

(30) Lillian Robinson and Lise Vogel: “Modernism and History”, in Images of Women in Fiction: Feminist Perspectives, Susan Koppelman Cornillon ed., Bowling Green University Popular Press, 1972,  p.278

(31) Lillian Robinson: “Dwelling in Decencies: Radical Criticism and the Feminist Perspective”, College English, Vol. 32, No. 8 (May, 1971), p. 889


Nguồn: Nghiên cứu văn học, số 8/2013, tr.3-21.

 

Exit mobile version