Lục bát viết ngang là tập thơ đầu tay của Nguyễn Thanh – một cây bút không còn trẻ, có thể nói đây là “nốt vui muộn mằn” lấy ý trong bài thơ Mưa đêm của anh. Nói thì nói vậy nhưng thực ra đến với văn học không lúc nào gọi là sớm và không lúc nào gọi là muộn. Văn chương là thú vui tao nhã, nó xoá nhoà mọi ranh giới tuổi tác hay địa vị xã hội của người cầm bút.

Và có lẽ chính vì thế mà tôi trân trọng cầm trên tay cuốn Lục bát viết ngang của tác giả Nguyễn Thanh.



 

Một tập thơ có cái tên khá lạ. Nhưng cũng cần nói ngay đây không phải tập thơ toàn thể lục bát. Lục bát viết ngang là một phần của tập thơ được chọn đứng tên cho cả tập.

Chúng ta thử đọc ngẫu nhiên một bài trong phần này.

Nhớ

Chia tay lại nhớ em rồi/Cái nhìn ngơ ngác cái cười thì duyên

Cái má thì lúm đồng tiền/ Cái thương cái nhớ về miền ca dao

Rõ ràng tác giả rất có ý thức cách tân thể thơ lục bát truyền thống. Một dòng có hai câu thơ; hai đấy mà một đấy. Người đọc không thể ngắt ra mà phải đọc liền một mạch. Người khó tính thì nói: Việc gì phải làm vậy, nhưng người đọc kỹ thì thú vị vì sự làm mới thể thơ quen thuộc đôi khi thấy nhàm chán của tác giả. Trong lòng có thể nhen nhúm một sự thú vị. Và phải chăng thế là tác giả đã thành công rồi?

Có thể nói 27 bài thơ lục bát ngắn của phần này là phần đóng góp của Nguyễn Thanh rất đáng trân trọng.

Và để minh chứng cho điều ấy, tôi xin trích thêm một vài bài khác của tác giả:

Hát với mùa đông

Ra về thơ cũng nghẹn ngào/ Để cho nốt nhạc rơi vào đêm đông

Hát đi em hát thoả lòng/ Vờ như chưa rét cho đòng đòng xanh

Đây nữa có thể là một trong những bài mà tác giả tâm huyết nhất:

Mưa đêm

Đêm trăn trở gió ngập ngừng/Bầu trời mặt đất lưng chừng mưa rơi

Nhạc buồn réo rắt trong tôi/ Khát khao nhặt những nốt vui muộn mằn

Tôi muốn dành phần thứ hai của bài viết về tập thơ cho phần thơ mang tên Đường chân trời, tập hợp những bài viết của Nguyễn Thanh khi anh đến những miền khác nhau của trái đất. Đó là những vần thơ được cất lên ở Matxcơva, St Peterbua (Nước Nga), Quebec, Toranto (Canada) Cali, San Francico (Hoa Kỳ). Rồi Myama, Trung Quốc, Singapore v.v… Anh dành tình cảm đặc biệt cho nước Nga – quê hương của Cách mạng tháng Mười. Anh nhớ lại.

Thế hệ tôi đi qua cuộc chiến tranh

Biết nước Nga qua từng câu chuyện kể

Một đất nước sao mà yêu đến thế

Thơ Putskin và vũ điệu Bạch Dương

Và biết ơn đất nước đã giúp Việt Nam trong cuộc chiến tranh vệ quốc:

Dẫu hôm nay vật đổi sao dời

Vẫn ngọn lửa thiêng một thời Xô viết

Ngày nước Nga – sao mà tha thiết

Dòng người đi ngời sáng tự hào

(Chiều Matxcơva)

Đến nước Mỹ, giờ đây đã là một địa chỉ của tình hữu nghị, anh xao xuyến:

Cây cao bóng rợp bên thềm

Những đôi bạn mới như quen lâu rồi

Chuyện con chuyện nghiệp, chuyện đời

Ly cà phê sánh nhớ thời tuổi xanh

(Chiều xứ Cầu Vàng)

Anh cũng dành cái nhìn thiện cảm cho đất nước Canada mến khách.

Đường tới chân miền Bắc Cực

Sông cứ ngân nga khúc nhạc tình

Còi tàu vang vọng vươn ra biển

Ngô lúa tưng bừng điệu vũ xanh

(Hoa cỏ bay)

75 bài thơ ở phần thứ 2 của tập thơ mang tên “Những nẻo đường thơ” tập hợp những bài thơ viết trong suốt những năm tháng sống và làm việc của Nguyễn Thanh. Như bài thơ đầu tiên của phần này Tập thơ – Đời người anh đã tâm sự:

Nào những vui những buồn

Của một thời tha thiết

Tàu cứ đi mải miết

Tới những chân trời xa

Và đây nữa:

Một đời người gian truân

Vần thơ mang vị đắng

Một bầu trời xa vắng

Cánh chim thơ bay cùng

Chỉ mấy vần thơ ấy người đọc có thể dự cảm thơ đã có trong hành lý cuộc đời anh, là người bạn trong lúc anh khó khăn, là niềm an ủi những khi anh thất bại, là khúc nhạc vui khi anh thành công.

Anh dành những vần thơ thiết tha yêu thương nhất cho những người thân. Đây là thơ anh tặng con gái mình trong ngày lễ thành hôn.

Bài thơ cha viết tặng con

Đêm vui như mãi vẫn còn mai sau

Quê hương chùm khế ngọt ngào

Đời con cha mẹ ước ao duyên lành

Thơ tặng con tràn ngập niềm vui nhưng đấy cũng là lời nhắn nhủ:

Đi qua một cuộc chiến tranh

Lau hàng nước mắt hát thành hùng ca

Cũng mạch cảm xúc ấy là những bài  Xuân đến cùng con, Khúc hát gửi con.

Và cũng như mọi thi sĩ, anh dành những vần thơ tình đẹp nhất cho người mình yêu:

Viết gì em khi cuối trời

Vẫn đôi mắt ấy nụ cười chờ mong

Xa xôi nhớ đến nao lòng

Tinh em như ánh trăng rằm dõi theo

(Bài thơ viết dở)

Tình yêu của anh sâu đậm phải chăng vì nó được bền quyện với tình yêu quê hương:

Quê mình đẹp lắm em ơi

Núi thường đôi ngọn trọn đời bên nhau

Bên sông đôi bóng hải âu

Đò sang đôi chuyến, sóng chao đôi bờ

Làng quê đôi vụ chiêm mùa

Tuổi thơ chung ngõ, bây giờ chung đôi

Thương nhau cái nết, cái cười

Say nhau như biển say trời triều dâng

(Lứa đôi)

Và còn đây nữa:

Năm xưa biển ấy mùa này

Gặp em để những vơi đầy lòng anh

Dòng sông in luỹ tre xanh

Duyên thầm cô gái ngọt lành Tiên Sa

Thế rồi đất nở mùa hoa

Với tà áo trắng hiền hoà cô dâu

Làng em qua mấy nhịp cầu

Nhà anh cô bác cau trầu xin duyên

(Sắc trời biếc xanh)

Mạch thơ được mở dần, từ cái Tôi sang cái Ta, từ cái riêng tư đến quê hương, đất nước. Khi đang công tác ở nước ngoài, anh nghe tin Biển Đông dậy sóng, cảm xúc trào lên đầu ngọn bút, anh viết;

Suốt tuần này sôi sục biển Đông

Một dân tộc tự xiết dần đội ngũ

Cha dặn con và chồng nhắc vợ

Tổ quốc lâm nguy, chúng ta lại lên đường

(Tổ Quốc)

Tấm lòng với đất nước của anh còn bộc lộ ngay cả khi anh khóc Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi ông qua đời:

Có kịp về không đồng đội ơi

Đại tướng chiều nay đã mất rồi

Trên đời có bao nhiêu danh tướng

Tướng của lòng dân, được mấy người

Có kịp về không đồng đội ơi

Anh Cả ra đi thanh thản rồi

Còn bao người lính trong thầm lặng

Dẫu phải hy sinh Tổ Quốc ơi!

(Có kịp về không đồng đội ơi)

*

Một sự ngẫu nhiên thú vị, Nguyễn Thanh và tôi đều là cựu học sinh của trường Phổ thông Trung học Thái Phiên Hải Phòng. Tôi là lứa học sinh tốt nghiệp đầu tiên của trường năm 1963. Cùng một lứa với tôi sau này là những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng có Đình Kính, Lưu Văn Khuê, Lê Xuân Quỳnh, Phạm Đình Trọng, Chu Văn Mười và Nghệ sĩ nhân dân điện ảnh Đào Trọng Khánh. Còn anh, Nguyễn Thanh lại là học sinh lớp chuyên văn khoá 1 của trường và thành phố. Một mái trường ra đời nhiều nhà văn, nhà thơ như trường Thái Phiên của chúng tôi phải nói là rất hiếm hoi và rất đáng tự hào.

Như người ta vẫn nói “Mọi ngả đường đều dẫn đến thành La Mã”. Chúng tôi dù đi đâu, làm việc gì rồi cũng đến với văn chương, cũng lấy văn chương là sự gắn kết. Và bây giờ chúng tôi vui mừng vì có thêm Nguyễn Thanh khi anh đem đến văn học một “nốt vui muộn mằn” – tập thơ Lục bát viết ngang của anh do nhà xuất bản Hội Nhà văn vừa ấn hành.

Nhà thơ Nguyễn Tùng Linh

Chủ tịch Chi hội Nhà văn Công nhân

Hội Nhà văn Việt Nam

Exit mobile version