Khi Nguyễn Duy đến với lục bát, trên bầu trời thi ca Việt đã xuất hiện nhiều ngôi sao sáng của thể thơ truyền thống này: Nguyễn Du, Tản Đà, Nguyễn Bính, Tố Hữu… Thoát khỏi bóng của những cây đa, cây đề đã khó, huống hồ đi tìm gương mặt của riêng mình giữa muôn ngàn bóng dáng quen lại càng gian nan. Bằng tâm thế riêng, với một tình yêu bất diệt dành cho những câu thơ “sáu nổi tám chìm” cha ông để lại, Nguyễn Duy đã tìm được cho mình nẻo đi riêng, vừa quen thuộc vừa lạ lẫm, vừa giản dị vừa thâm sâu. Gắn lẽ sống đời mình vào nhân dân với tuyên bố chắc nịch “Ta là dân”, ông bắt đầu hành trình sáng tạo từ điểm khởi đầu và cũng là đích đến: làng quê Việt Nam – nơi lưu giữ cội nguồn văn hóa dân tộc.

Với Nguyễn Duy, làng quê không chỉ được cảm nhận bằng cảnh sắc thiên nhiên mà còn được thể hiện qua tín ngưỡng thờ Mẫu và lễ hội, những nét văn hóa có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh người Việt. Đọc thơ ông, chúng ta bắt gặp hình ảnh những ngôi đền thờ Mẫu giữa khung cảnh yên bình của làng quê Bắc Bộ: Phiêu bồng dạt ngã ba Bông/ đền Hàn đền Thị đền Sòng đền quê (Đi lễ); Đền đài tỉnh giấc rêu phong/ nhong nhong thiên hạ lên đồng sướng chưa(Lên đồng)(1). Trong tín ngưỡng người Việt, lên đồng là một hoạt động tâm linh độc đáo mà ở đó con người – đặc biệt là người phụ nữ – nhập cuộc, mê đắm trong cõi siêu nghiệm, huyền diệu, mong tìm thấy sự thanh thoát, gột rửa mọi tục lụy cõi trần, xoa dịu bớt bao nhọc nhằn, tủi nhục và sâu xa hơn, là sự “cầu may”, cầu tình cầu duyên cho những số phận long đong, lận đận: Phím dây từng bậc lên trời/ rủ nhau quên tóc rối bời cỏ rơm (Cung văn). 

Lễ hội là một trong những thành tố quan trọng cấu thành nên văn hóa làng xã. Lễ hội xuất phát từ ước mong của người dân về sự bình yên cho mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng, về sự bội thu cho mùa màng, tránh khỏi những bất hạnh, kiếp nạn… Hình ảnh lễ hội chùa Hương trong lục bát Nguyễn Duy ở một phương diện nào đó cũng mang những ý nghĩa, ước nguyện cao cả và linh thiêng ấy: Dấn thân vào tận cõi thiền/ còn mơ Đụn Gạo, Đụn Tiền cho ai/ hạc vàng về với Như Lai/ nỗi lo trần thế theo ngoài chân mây (Đoán mộng). Lên chùa, đi lễ là cách thức tìm nơi trú ngụ bình yên, có thể quên đi những đắng cay, tục lụy cõi trần, để trở về với cõi Phật thanh sạch: Biết là chả có Phật đâu/ vẫn lòng thanh sạch lại sau lễ chùa/ người về khăn áo gió đưa/ phất phơ hồn vía ngày xưa vẫn còn (Giã từ).

Đời sống văn hóa tâm linh người Việt được Nguyễn Duy tái hiện một cách sinh động và độc đáo. Sinh động bởi đã lột tả được tinh thần và đời sống tâm linh của người Việt gửi gắm trong các tín ngưỡng bản địa, lễ hội dân gian, độc đáo do đã không nhìn ở một chiều thuận mà luôn đặt vấn đề trong cái nhìn “giễu nhại”, pha chút hài hước, xót xa. Ở nhiều nơi, nhiều chỗ, những hoạt động tín ngưỡng đẹp đẽ đó đã bị biến tướng, cái phàm tục, xô bồ đã bắt đầu len lỏi nơi cửa thiền: Từng đôi anh trước chị sau/ từng bầy xe cúp lùa nhau trên đường (Đi chùa), lăm lăm cái thước phàm trần/ làm sao đo được thánh thần em ơi (Hàng Mã). Rõ ràng, thơ lục bát của Nguyễn Duy dù viết về những tín điều linh thiêng, kì bí nhất vẫn rất đời, rất người.

Không khó để bắt gặp trong thơ lục bát Nguyễn Duy hình ảnh làng quê êm đềm, diệu vợi, thi vị. Hướng ánh mắt về phía xa xa là: Đồng chiêm phả nắng lên không/ Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng/ Gió nâng tiếng hát chói chang/ Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời (Tiếng hát mùa gặt) và quờ tay thật gần lại chạm vào: Bưởi nhà ai chín sau vườn/ gió bâng quơ thả làn hương giữa trời/ cu cườm thong thả bay đôi/ về đâu hỡi lục bình trôi lững lờ (Xuồng đầy).

Không chỉ cảm nhận bằng hình ảnh thơ mộng, làng quê trong kí ức Nguyễn Duy còn là thế giới đa sắc, đa tình, để mỗi khi nhớ về lại cồn cào, da diết, rưng rưng: Sóng xô lớp lớp lá cành/ nhớ thăm thẳm biển long lanh cá về/ nhớ trưa xanh như tiếng ve/ dòng sông đun biếc cho tre gội đầu// Nghe rừng í ới gọi nhau/ nhớ ơi buổi sáng xanh màu mạ non/ nhạt lưng cơm nhớ mảnh vườn/ xanh lam rau muống xanh rờn mồng tơi (Người con trai).

moonlight


Không chỉ cảm nhận ở mùi hương, hình ảnh làng quê còn gọi về qua âm thanh quen thuộc:tiếng trống chèo, tiếng ếch nhái, tiếng ve kêu trắng xác ngày hè (Giấc mộng trắng), tiếng chuông chiều, tiếng đàn bầu sâu lắng bồng bềnh mạn nhặt mạn khoan/ thời gian có tiếng không gian có hình (Đàn bầu) và đặc biệt là tiếng ru ngọt ngào, da diết của bà, của mẹ: con cò bay lả bay la (Lời ru cò biển), bồng bồng cái ngủ trên tay (Lời ru mùa thu), ngủ ngoan con nhé con ngoan (Lời ru trong bão)… Làng quê yên bình, chắt chiu từng giọt nắng, cơn mưa, không phụ công người vun trồng, cây cối xanh tươi cho những thức quà quê mộc mạc, đơn sơ và nặng ân tình: Bát sành lần lượt chuyền tay/ nước ngô mẹ lại rót đầy cho con/ ai chưa uống nước ngô non/ là chưa được thấm cái ngon của đồng// Cây ngô đứng nắng vẹo hông/ cho con bát nước mát lòng mẹ ơi (Bát nước ngô).

Tuy nhiên, làng quê trong thơ lục bát Nguyễn Duy không chỉ êm đềm, bình yên, tĩnh lặng mà còn có cả giông bão. Sinh ra và lớn lên trên vùng đất chiêm trũng, nỗi ám ảnh lớn nhất của Nguyễn Duy đó là cảnh mưa bão. Khi đang ở Trường Sơn, nhà thơ đắng lòng nghĩ về hình ảnh quê nhà giữa mùa lũ lụt: Lúa chìm xuống cỏ dềnh lên/ rác bùn gạch ngấn ngang nhiên trên tường/ bèo đi ngang ngược giữa đường/ lụt ăn theo bão lẽ thường xưa nay (Lời ru trong bão). Rồi thời gian định cư trong Sài Gòn, nghe tin dự báo thời tiết, thi sĩ giật mình thảng thốt như chính mình đang đứng giữa tâm bão: Năm nay lại lụt trắng đồng/ quê ta lại tỏng tong tong mùa màng/ làng ta lại lóp ngóp làng/ lòng ta lại ếch nhái hoang cả lòng (Dân ơi). Và xót xa nhất có lẽ là hình ảnh cánh cò nhỏ bé, trơ trọi trước bao hiểm nguy rình rập trong mùa nước nổi: Rắn bầy ngóc cổ ngọn cây/ để con cò rã cánh bay mút mùa (Mùa nước nổi). Những hình ảnh chân thực đến từng chi tiết, đầy sức gợi, sức cảm ấy chỉ có thể được viết nên từ cảm giác của chính người trong cuộc đã từng rét run vì cái lạnh thấu xương thịt, từng chới với trong vòng xoáy nước lũ, từng thót mình lội dưới bùn sâu, từng cồn cào đói cơm khi mùa màng trôi mất…

Cùng với cảnh sắc thiên nhiên, trong sáng tác của Nguyễn Duy, chúng ta còn bắt gặp hình ảnh con người Việt Nam qua những người nông dân nghèo, lam lũ, tất bật quanh năm. Đó là hình ảnh người mẹ vất vả mưu sinh: Mẹ ta không có yếm đào/ nón mê thay nón quai thao đội đầu/ rối ren tay bí tay bầu/ váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa); là người cha tay cày, tay cuốc quanh năm vẫn luôn bị cái nghèo, cái đói truyền kiếp đeo đẳng:Cha ta cầm cuốc trên tay/ nhà ta xơ xác hơn ngày xa xưa/ lưng còng bạc nắng thâm mưa/ bụng nhăn lép kẹp như chưa có gì (Về làng); là những người em suốt đời “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” vẫn không đi hết nỗi nhọc nhằn, kham khổ: Lũ em ta vác cuốc cào/ giục nhau bước thấp bước cao ra đồng/ mồ hôi đã chảy ròng ròng/ máu và nước mắt sao không có gì (Về làng). 

Viết về những vất vả, lam lũ của con người nơi làng quê, nhưng lục bát Nguyễn Duy không đem lại cảm giác bi quan, chán nản, mà ngược lại, chúng ta thấy đằng sau sự lam lũ, kham khổ kia là sức sống mãnh liệt, là tâm hồn nhân hậu và tính cách đẹp đẽ của người dân quê nghèo. Người mẹ lam lũ, nhọc nhằn là vậy nhưng vẫn rạng ngời vẻ đẹp tâm hồn – vẻ đẹp của đức hi sinh, của lòng bao dung độ lượng: Nhìn về quê mẹ xa xăm/ lòng ta chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa/ ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/ miệng nhai cơm búm lưỡi lừa cá xương (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa); người vợ tảo tần, kham khổ là thế, nhưng trái tim lại chứa đầy niềm vị tha, yêu chồng thương con: Nghìn tay nghìn việc không tên/ mình em làm cõi bình yên nhẹ nhàng (Vợ ốm). Họ chính là hiện thân cho những gì tinh tuý nhất của làng quê Việt. Với tâm hồn ngát hương, họ chính là nơi lưu giữ và thắp sáng vẻ đẹp Việt Nam. “Thơ Nguyễn Duy đưa ta về một thế giới quen thuộc. Nguyễn Duy đặc biệt thấm thía cái cao đẹp của những con người, những cuộc đời cần cù gian khổ, không tuổi không tên. Đọc thơ Nguyễn Duy thấy anh hay cảm xúc, suy nghĩ trước những chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình. Cái điều ở người khác có thể chỉ là chuyện thoảng qua thì ở anh, nó lắng sâu và dường như đọng lại…”(2). Chính vẻ đẹp ấy khiến không ít lần thi sĩ phải tự vấn lương tâm, trăn trở, sám hối về những “món nợ đời” không bao giờ trả hết: Nợ người khóe mắt rưng rưng/ nợ sông giọt nước nợ rừng bóng cây// Nợ em lận đận tháng ngày/ ánh trăng ngọn gió áng mây nợ trời (Nợ đời). 

Với Nguyễn Duy, viết về sự lam lũ, nhọc nhằn cũng là hành trình đi tìm cái đẹp, một cái đẹp ẩn ngầm, phải thật tinh tế, chân thành, sâu sắc mới có thể “ngộ” và “nhận” ra. Ông gọi đó là hành trình “đãi cát tìm vàng” từ “muối mặn mồ hôi” (Đãi cát tìm vàng). Đó là quan niệm tìm cái đẹp trong gian khổ, tìm trái tim vàng trong vẻ ngoài xác xơ, tìm một tâm hồn bất diệt trong những khoảnh khắc đời thường của cuộc sống. Với ông, cái đẹp trân quý nhất trong cuộc đời là cái đẹp vươn lên từ gian khó, nhọc nhằn, từ đau thương mất mát, từ mồ hôi, nước mắt và máu xương. Chính điều này cũng tạo nên sự khác biệt giữa Nguyễn Duy và các nhà thơ của dòng thơ đồng quê trước đó. Với Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ… cái đẹp của làng quê đã được thi vị hóa, lãng mạn hóa, không hề có dấu vết của chân lấm tay bùn, của muối mặn, của nhọc nhằn lam lũ. Nguyễn Duy có cái nhìn đa diện, đa chiều, phức tạp hơn về đời sống và con người nơi thôn quê. Ông đem theo cả bùn đất lấm láp, cả gương mặt lấm lem của nông thôn Việt Nam vào thơ, nhưng từ phía bùn lầy nước đọng ấy vẫn ánh lên những vẻ đẹp đơn sơ mà kì diệu, chân chất nhưng rạng ngời.

Thế giới thơ lục bát Nguyễn Duy đầy ắp cảnh sắc thiên nhiên và chân dung người dân quê với những số phận, tính cách, tâm hồn độc đáo. Ông đã tạo tác nhiều biểu trưng về làng quê với những hình ảnh quen thuộc, giản dị nhưng vô cùng thiêng liêng. Khám phá thế giới thơ Nguyễn Duy là thêm một lần chúng ta được trở về với cội nguồn văn hóa dân tộc, lắng mình nghe tiếng vọng của tổ tiên. Chân thực và thi vị, say mê và đắng đót, thơ lục bát Nguyễn Duy gói trọn hồn quê hương ở những phần lung linh, đẹp đẽ nhất và cả những phần nhọc nhằn nhất. Lắng nghe và nghiệm suy từ tiếng thơ ấy, chúng ta như thêm yêu mảnh đất nơi ta sinh ra, thêm quý từng gương mặt lam lũ, chắt chiu những khoảnh khắc giản dị đời thường, và nhắc nhở nhau bảo tồn, giữ gìn nét văn hóa dân tộc, cảm thông và sẻ chia với những người xung quanh ta. Đó chính là giá trị dài lâu, vững bền mà Nguyễn Duy và thơ lục bát của ông mang lại cho người đọc


——–
1. Tất cả các trích dẫn về thơ Nguyễn Duy trong bài đều được lấy từ tuyển Thơ Nguyễn Duy(2010), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
2. Hoài Thanh (1972), Đọc một số bài thơ của Nguyễn Duy, Báo Văn nghệ, số 442 ngày 14 tháng 4.

Nguồn VNQĐ

 

Exit mobile version