Ký ức một thời
Phạm Thị Toán
Tác phẩm đạt giải Cuộc thi Cảm nhận Tây Nam bộ, năm 2012
8 giờ sáng.
Từng người xuống tàu. Nhiều người mang vác theo những bọc hàng hóa cồng kềnh. Từ chợ Sa Đéc đi về thị trấn Mỹ An của huyện Tháp Mười trong ngày chỉ có một chuyến tàu này. Đường bộ đi về huyện gần như chưa có. Nếu trễ thì chỉ có nước nằm ở lại, đợi ngày sau mà về. Cả một ngày đêm thật khủng khiếp, thời gian tới 24 tiếng đồng hồ không biết đi đâu, khi mà xe máy không có, điện nhà, điện thoại, ti vi cũng không.
Rồi chiếc tàu lô chen chúc cả trăm con người cũng bắt đầu ì ạch nổ máy rời bến. Lúc mới xuống tàu có ít người, chắc muốn khoe với cô vợ sắp cưới cảnh nên thơ sông nước quê mình nên chồng tôi cố ý chọn chỗ ngồi ở hàng ghế sát bên ngoài hông tàu để có thể nhìn rõ hai bên bờ sông. Tàu chạy dọc con sông Sa Đéc. Lúc ấy phía bệnh viện Sa Đéc mới bị lở chút ít ngoài đầu doi. Thời gian chẳng bao năm, không biết có phải do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu hay không, mà sự tàn phá của thiên nhiên thật ghê gớm. Nó đã “nuốt chửng” luôn cả cái bệnh viện tỉnh rất bề thế ngày nào.
Hết sông Sa Đéc, tàu rồ ga băng qua con sông Tiền mênh mông. Gió ào ào thổi. Cái không khí nóng nực, oi nồng ở trên bờ chỉ ít phút trước đây, đã tan biến hết khi tàu bắt đầu ra đến sông lớn. Nước và trời mênh mông như giao nhau. Tít xa chỉ nhìn thấy một vệt xanh mờ, chạy dài. Tàu rẽ sóng xiên chếch xéo để sang bên kia sông. Từ mũi tàu, nước hai bên mạn tàu rẽ ra tung lên từng đám bọt trắng xóa rồi chạy lăn tăn tan dần ra xa. Trên trời, bầy chim én bay lượn thành đàn. Có một vài con dạn dĩ còn chao lượn sát mũi tàu trông thật nên thơ.
Tôi cứ đắm mình nhìn nước, nhìn trời. Cũng phải thôi! Là cô gái quê tít tận tỉnh Thái Bình, lại ở thị xã, rất ít sông rạch, lần đầu tiên về quê chồng, tôi thật ngỡ ngàng, thích thú xen lẫn sợ hãi bởi không biết lội. Lỡ ra….. , tôi không dám nghĩ tiếp. Có điều cũng hơi an tâm bởi ông xã sống ở vùng sông nước từ nhỏ đến lớn lội giỏi, lỡ có gì xảy ra, chắc tôi không bị chìm nghỉm dưới nước. Tuy vậy, mới bước xuống tàu, như phản xạ, tôi đã dáo dác dòm tìm kiếm phao và mấy cái can nhựa không, để ở góc tàu. Lỡ có gì, có lẽ tôi sẽ phóng lẹ nhất tới cái đống phao cứu sinh, ít người để ý ấy……
Qua sông Tiền, con tàu chạy chầm chậm tới Bình Thạnh. Giống như xe đò trên đường, tới nơi nào hễ có người cần xuống, kêu là tàu ghé liền chẳng thấy qui định đâu là bến cho xuống khách. Rồi tàu tới Rạch Ruộng, theo kênh Nguyễn Văn Tiếp. Khoảng hai giờ chiều, tàu ghé chợ Thanh Mỹ. Có ba bốn người cùng chúng tôi xuống đây. Con tàu lại tiếp tục rẽ sóng tiến về chợ Mỹ An của huyện Tháp Mười, nghe nói khoảng bốn tới năm giờ chiều mới tới bến đậu cuối cùng cho khách xuống và 12 giờ đêm, nó lại trở ngược về Sa Đéc mang theo cả trăm người và đặc sản miền sông nước Tháp Mười: rắn, rùa, chuột, chim, cá, tôm, bông sen, bông súng….
Chiều nắng chang chang, trong chợ không còn bóng người, không có những tiệm bán hàng chạp phô, tiệm thuốc tây mua bán cả ngày đêm như bây giờ. Các loại tôm cá cua ốc, chuột đồng, chim cò, rau muống, bông súng….. nói chung tất tật những thứ của đồng quê được bà con đánh bắt, trồng tỉa đem ra chợ bán vào những buổi sáng. Khi nắng vừa hửng lên là chợ tan bởi gọi là chợ nhưng chỉ là một doi đất trống, bà con tự nhóm họp chủ yếu để trao đổi hàng hóa với nhau, hầu như không có căn nhà xây nào. Buổi chiều chỉ lác đác vài cái dù che tạm bán bánh mỳ, cơm, hủ tiếu, bánh canh và một cái sạp bán vải, quần áo may sẵn. Chúng tôi dừng chân ngồi nghỉ chuẩn bị cho đợt “hành hương” sắp tới, khoảng hai ba cây số để về kênh 1, ấp Lợi An, nơi ngày xưa là căn cứ cách mạng Tỉnh ủy tỉnh Kiến Phong (Đồng Tháp ngày nay). Mà hai cây số của người dân nơi đây tôi nghe đâu cũng kéo “dây thun” lắm nên cũng hơi ơn ớn trong đầu. Nghỉ khoảng mươi phút, ông xã hối đi về gấp, sợ trời mưa thì mệt.
Chưa mưa mà tôi thấy mệt thiệt! Đường gì mà khúc khuỷu, lồi lõm, bề ngang có lẽ khoảng nửa mét, một bên đường là con rạch chạy dài, một bên là sông, sơ ý một chút là “trượt pate” xuống đó liền. Còn một cái khổ nhất mà không thể không nói đến, đó là cứ đi dăm mét là có ngay một cây cầu khỉ. Tại sao họ lại gọi là cầu khỉ mà không gọi là cây cầu nhỉ? Sau chuyến đi này, tôi mới tự trả lời được!
Ôi trời, tới bây giờ nhớ lại tôi vẫn còn nổi da gà, tim vẫn đập thình thịch, xây xẩm cả mặt mày. Cầu gì mà chỉ có một cây gáo hoặc cây tràm khúc khuỷu cong queo bắc qua. Có cây có tay vịn, còn đa phần là không. Đi qua cứ như làm xiếc. Để qua được một cây cầu, tôi phải ngồi ngang, tập trung cao độ để nhích dần từng centimet, hai tay ôm cứng lấy thân cầu nên mỗi khi bò qua được một cây cầu, tôi phải ngồi thở dốc dù giỏ xách, quà cáp đem về, thậm chí cả đôi guốc cao gót ông chồng cũng mang vác hết, chưa nói một tay anh còn phải nắm lấy bắp tay tôi, miệng thì điều khiển, phải làm thế này, phải làm thế kia. Còn một số cây chiều dài hơn một mét thì cứ “liều mình” phóng qua là dễ thở hơn. Tôi thấy dân nơi đây giỏi thiệt, đặc biệt mấy đứa con nít. Cầu choi loi như vậy mà đi cứ như đi trên đường, mấy đứa nhỏ còn chạy ào qua chẳng cần tay vịn. Có khi bên này bên kia cầu hai đứa giành nhau cùng đi qua mà vẫn không hề bị té. Giá mà cho làm diễn viên xiếc, có lẽ họ chẳng cần cầm cây giữ thăng bằng như diễn viên mấy cái đoàn xiếc chuyên nghiệp đâu. Lúc ấy dù sợ, tôi chợt phì cười vì liên tưởng đến câu chuyện ngụ ngôn “Hai con khỉ qua cầu” chẳng ăn nhập gì với mình cả.
Bởi tại cái mặt tôi tái xanh tái mét, cả người run cầm cập chẳng còn hồn vía gì khi đi qua những cây cầu ấy, khiến ai đi ngang cũng phải mắc cười, chắc họ xem tôi như từ “hành tinh khác” rớt xuống. Tôi vùng vằng tuyên bố với ông chồng: “Thôi, đây là lần đầu cũng là lần cuối, không bao giờ về đây nữa đâu”! Ông xã tôi phì cười: “Vậy đó, chứ sau này muốn về….. hoài à”. “Ai về thì về. Đã nói không về là không!” “Thôi, khuya mai đi bằng đường sông, khỏi qua cầu nữa, được không?” Tôi vội vàng gật đầu đồng ý ngay. Nghĩ tới đoạn đường trở ra, tôi bủn rủn cả người nên đi kiểu nào cũng được, miễn đừng phải bò qua những cây cầu này. Mà nghe nói lại đi lúc nửa đêm để đón tàu nữa chứ! Đi ban ngày đã muốn đứng tim, huống hồ ban đêm, chẳng biết rồi sẽ như thế nào….Cũng may là tôi không bị bệnh tim, chứ tôi mà bị cái bệnh nguy hiểm này, có khi một “nguyên nhân” tạo ra bệnh lại đổ thừa tại đi qua mấy cây cầu khỉ này mất! Nhưng, đã lỡ “leo lưng cọp” rồi, thây kệ, tới đâu thì tới!.
Gần tới nhà, nghe nói chỉ còn ba cây cầu nữa thôi, tôi cũng khấp khởi mừng trong bụng thì gió ào ào thổi tới, một cơn mưa chợt đổ ập xuống. Thời tiết gì mà kỳ cục, thật vô duyên!. Mới nắng chang chang đó, chẳng thấy có một bóng mây, chả có dấu hiệu gì trời mưa, thế mà vẫn mưa như xối nước được. Hai chúng tôi ướt nhẹp, lạnh run. Bây giờ thêm cái nạn nữa của trời mưa còn khổ trăm ngàn lần trời nắng.
Vốn đường đất sét pha thịt, khi trời khô thì cứng ngắc, đi chân không bị đâm đau nhói, xuýt xoa hoài nhưng kể ra cũng còn “sướng” chán. Đến lúc mưa, đất chèm nhẹp dính bết vào guốc gỡ không ra. Không lẽ đem vứt quách luôn đôi guốc. Đi chân không dò từng phân còn khó, huống hồ mang thêm đôi guốc bết đất, giống như đeo thêm cùm ở chân. Tới hai cây cầu gần nhà còn khổ hơn những cây cầu trước. Nước mưa, những cây tràm làm cầu đã tróc vỏ vì mưa nắng, càng trơn trượt. Lơ đãng một chút là lọt xuống sông liền.
Trầy trật cả tiếng đồng hồ, người lấm lem đầy sình đất rồi chúng tôi cũng về được tới nhà. Trong nhà chỉ một mình mẹ anh. Ông già và một người anh là liệt sĩ, hy sinh cách nhau có vài năm, không còn nổi một tấm hình, chỉ thấy có hai cái bằng Tổ quốc Ghi công trên bàn thờ. Nhà anh cũng như rất nhiều gia đình tôi gặp trên đường từ chợ đi vô, không hề thấy bóng một ngôi nhà tường mà rặt nhà lá, vách đưng. Khung sườn nhà, đòn dông chủ yếu là cây tràm, là loại cây rất sẵn ở vùng này. Ngôi nhà tuổi thọ chắc đã nhiều năm, lại về đúng lúc trời đang mưa, chúng tôi phải dùng thau nồi hứng những chỗ bị dột. Nền nhà cũng bằng đất sét nện cứng. Nước mưa đổ xuống trong nhà như ngoài sân, rất dơ.
Nước sinh hoạt quanh năm để dành ăn uống dựa vào hệ thống lu khạp hứng nước mưa. Nhìn nhà giàu nghèo lúc ấy là đoán ngay được bởi “tiêu chí” là hàng lu khạp đựng nước mưa dài hay ngắn, lu cao hay lu thấp. Ngược lại, mùa nắng tuy đỡ hơn nhưng cũng khổ vì nước phèn. Nước trong vắt đến tận đáy, thoạt nhìn rất thích bởi thấy rõ những con cá con tôm bơi lội như trong bể cá. Thế nhưng, nếu nhúng chân xuống cái thứ nước tưởng nước rất sạch ấy chỉ ít lần thôi là da chân đổi màu xám ngoét, mốc thếch. Móng chân thì vàng chệch, ăn sâu vô tận những kẽ móng. Chưa nói tới nạn đỉa từng đàn nhung nhúc lội, sẵn sàng “viếng thăm” nếu xuống sông tắm không để ý.
Còn cái nạn đi vệ sinh mới khổ! Thật “mắc cỡ” với mấy con cá dưới ao, bởi ở đây chỉ toàn là cầu cá.
Hỏi thăm về trường học lúc đó chỉ có lớp dạy cấp I. Đường xá đi lại khó khăn nên giáo viên cũng ít muốn về đây. Để học cấp II, các em phải ra Mỹ An hoặc nhờ bà con họ hàng gởi trên thị xã mới theo học được.
Đêm xuống. Ngoài trời tối đen như mực bởi ở đây chưa có điện, người dân chỉ dùng đèn dầu. Từng đàn muỗi vo ve, nhỏ xíu, gần như không thấy hình thù nhưng chúng châm vô là muốn nhảy dựng. Má anh đã giăng sẵn mấy cái mùng. Cảnh ngồi trong mùng nói chuyện bây giờ nghe thật lạ, chứ lúc bấy giờ rất phổ biến nếu không muốn bị muỗi chích. Mà lúc ấy ai cũng nghèo, cũng khổ. Tiền không đủ ăn, đừng nói tới chuyện mua thuốc xịt hay kem thoa tránh muỗi. Nhưng muỗi nhiều quá, mấy thứ trừ muỗi là hàng xa xỉ phẩm bấy giờ cũng không thể đuổi những đàn muỗi đói ấy đi được, bởi chúng quá nhiều. Má anh và bà con xung quanh thường xua muỗi bằng việc hun gốc cây hay hun trấu mới bớt đi đáng kể mà chẳng tốn một xu nào.
Lăn qua lăn lại, rồi một đêm lạ nhà cũng qua đi. Tờ mờ sáng, má anh đã thức dậy quét dọn. Tôi cũng dậy theo. Má biết con gái thành thị, đi làm việc hay ngủ nướng. Bà nói: “Con cứ ngủ thêm đi. Má thức sớm quen rồi, có nằm thêm cũng không ngủ được”. “Con cũng không ngủ được má à”! “Ừ! Thôi xuống bếp sưởi ấm, ngồi gần lửa có khói cho bớt muỗi”.
Sáng rõ đã có mấy cô bác xung quanh nghe tin có cô dâu miền Bắc về, ghé qua hỏi thăm. Đúng là tình người nơi thôn quê mộc mạc, chân tình thật. Má anh ra bờ ruộng sau nhà đem vô mấy cái lờ lợp trong thấy cá tôm nhảy lách chách, đổ ra thau cũng hơn cả ký. Sao ở đây kiếm đồ ăn dễ thế nhỉ?! Mấy dì lối xóm tới chơi tiếp làm cá. Má kêu tôi ra trước nhà vít cây điên điển hái nửa rổ bông vàng rực đem vô.
Tôi cứ tròn xoe mắt, tự hỏi sao cái thứ bông vàng cuống xanh, mùi dịu dịu thơm thơm ngai ngái ấy lại ăn được nhỉ! Sau khi lặt sạch. Má bắc nồi canh chua nấu với cơm mẻ. Má lựa ít con cá rô tròng trọng làm sạch, bỏ vô nồi. Cá còn lại, số chiên, số kho tiêu. Gạo nấu cơm thì bằng loại gạo đỏ lúa mùa nhà trồng, cả một năm mới thu hoạch một vụ. Càng nhai càng thấy ngòn ngọt, thơm thơm, ăn hoài không muốn dừng. Sau này dù có lúc đi ăn tiệm rất nhiều món “sơn hào hải vị” nhưng tôi cảm giác chưa bao giờ được ăn một bữa cơm dân dã nhưng ngon hơn thế! Cả một nồi cơm to tướng, quay đi quay lại hết sạch.
Ăn xong, tôi cùng ông xã đi tới mấy nhà bà con chòm xóm xung quanh thăm hỏi. Đa phần là họ hàng với anh. Ai cũng vồn vã, hồ hởi đón tiếp chúng tôi. Cái không khí đầm ấm ấy làm cho tôi bỗng quên bẵng đi cái cực khổ nơi quê nghèo thiếu thốn như ở đây. Buổi chiều sau khi ăn xong, má kêu chúng tôi đi ngủ sớm để tối còn đi. Thao thức mãi, mới chợp mắt một lát, bà gọi dậy ra tàu. Lúc ấy độ chừng quá nửa đêm.
Trời đêm lành lạnh nhưng đầy sao, chắc mai trời nắng lắm, má nói vậy. Lập cập mắt nhắm mắt mở tôi bước xuống xuồng. Chiếc xuồng ba lá nhỏ nhắn gọn ghẽ, chòng chành. Lại tới cái màn ngồi xuồng chết trân không dám đụng cựa sợ lật xuồng. Cái xuồng bé nhỏ chở tới ba người, nước hai bên be xuồng mấp mé, cảm tưởng nước sắp tràn vào xuồng, cả mấy tiếng ngồi muốn đứng tim. Má bơi lái, anh bơi mũi. Đêm có gió, trên sông thấy ít muỗi hơn, mà có con vô tình đậu vô người, tôi cũng không dám đập, cho chúng hút máu chán rồi tự bay đi. Nước ngược nên hai người cật lực bơi lâu lắm mới ra tới vàm. Chợ bây giờ vắng tanh, tối thui. Chỉ thấp thoáng một bóng đèn tròn mờ mờ nơi nhà máy chuốt gạo.
Chúng tôi ngồi đợi tàu ra. Đêm nay nước chảy mạnh thật, sao đêm khuya quá mà tàu vẫn chưa tới. Không có đồng hồ, ngồi vạ vật, khoác cái áo budong dài tay, cao cổ của anh chờ đợi. Từng đàn muỗi lại vo ve bên tai, châm chích. Khoảng hơn hai giờ sáng có người ra bán cá, thấy chúng tôi chờ tàu vội nói, tàu chạy từ nãy rồi.
Trời…..tôi muốn sụm luôn. Chán nản, buồn tủi, tôi òa khóc nức nở, nằm dài ra cái sạp bán thịt trong chợ chẳng sợ dơ bẩn, mặc gió thổi, mặc muỗi chích, mặc ông chồng an ủi, tối mai sẽ chèo xuồng ra chợ ngủ luôn, không sợ trễ tàu. Má đã bơi về rồi. Bây giờ mà kêu tôi quay lại con đường hồi chiều chắc tôi “tự vận” chết luôn. Tôi lạy trời lạy phật có một phép màu, nhắm mắt lại, khi mở mắt ra là đang ở Sa Đéc rồi. Mệt mỏi, mơ màng tôi thiếp đi. Anh ngồi đuổi muỗi để tôi ngủ và trời sáng hẳn chúng tôi quá giang được xuồng của người quen gần nhà đi chợ, quay trở về nhà anh.
Rồi đêm sau, đúng như anh hứa, chập tối má bơi xuồng đưa chúng tôi ra chợ ngủ nhà người bà con gần đó. Hai giờ sáng tàu ra. Thật là mừng hơn “mẹ đi chợ về”. Lúc này trên tàu ít người. Chủ tàu còn giăng sẵn vài cái võng. Chúng tôi lên hai cái võng còn trống. Mặc cho người lên xuống. Gió mát hiu hiu. Hửng sáng nghe lao xao, mở mắt thì ra đã tới chợ Sa Đéc rồi. Hai chúng tôi vội vàng theo mọi người lên bờ, kết thúc chuyến hành trình lần đầu tiên về quê chồng. ….
* * *
Xã Thanh Mỹ anh hùng, nơi trước đây là cái nôi của cách mạng, quê hương thứ hai đã gắn kết với cuộc đời tôi. Hai đứa con trai của tôi – Minh Nhật, Nhật Minh ra đời có cội nguồn nơi ấy. Trong chiến tranh, nơi đây đã chở che bao bọc các đồng chí lão thành cách mạng như bác Tám Bé, chú Tư Hữu, chú Mười Long, chú Hai Thái Hòa…., tổ chức đầu não của tỉnh Kiến Phong, nay là tỉnh Đồng Tháp để lãnh đạo phong trào cách mạng các địa phương trong tỉnh, góp phần vào chiến thắng trong ngày 30 tháng 4 năm 1975 lịch sử, hào hùng của dân tộc.
Không biết bao nhiêu tấn bom đạn, chất độc hóa học đã bị chúng rải xuống mảnh đất nhỏ bé nhưng trung dũng, kiên cường này. Thử hỏi các nhà viết sử, có nơi nào như nơi đây. Chiến tranh thật khốc liệt, nơi mà gia đình nào trong xã cũng có người chết, bị thương vì đạn bom, vì bị tra tấn tù đày ở lại vùng giải phóng, đồng cam cộng khổ.
Có rất nhiều dũng sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang và bà mẹ Việt Nam Anh hùng được nhà nước trao tặng cho những con người nghèo nàn nhưng vô cùng yêu nước, trung kiên nơi mảnh đất vùng sâu Tháp Mười này. Không biết đã bao nhiêu máu xương của đồng chí, đồng bào đổ xuống nơi đây để ngày hôm nay chúng ta có dịp hồi tưởng lại một thời lịch sử hào hùng đã qua của vùng đất với hai tiếng gọi thân thương: Thanh Mỹ, Tháp Mười.
Sau ngày giải phóng, thống nhất đất nước 1975, xã Thanh Mỹ tan hoang bởi bom mìn chà nát. Cả vùng đất bao la hầu hết là cánh đồng hoang đầy lúa trời, cỏ mồm, đế năn, sậy, tràm, sản xuất chỉ một vụ lúa mùa, năng suất bấp bênh, mùa lũ thì nước ngập mênh mông, mùa khô đất đai nứt nẻ, xì phèn không thể sản xuất được, không đủ nuôi sống dân trong xã mà chỉ chờ cứu viện từ trung ương về. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội hầu như chưa có gì, giao thông khó khăn, chỉ đi bằng đường thủy, dân cư thưa thớt.
Ngày xưa khi chưa bước chân tới mảnh đất này, tôi thường nghe hai câu ca dao đầy mơ mộng nằm lòng nói về Đồng Tháp Mười là xứ: “Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn”. Thế nhưng tôi thấy nó chỉ đúng khi mà “đất rộng, người thưa”. Sau này khi dân cư đông dần, cá – lúa ở đâu mà bắt mà kiếm hoài nếu không nuôi nấng, trồng tỉa.
Từ gần như “hai bàn tay trắng”, chính quyền và nhân dân Thanh Mỹ cùng nhau bắt tay xây dựng lại quê hương: Đào thêm hệ thống kênh nối liền các con kênh lớn vươn vào vùng sâu để dẫn ngọt, thau chua, rửa phèn, cải tạo đất đai, mở rộng diện tích sản xuất lúa, tiêu thoát lũ và tăng thêm nguồn thủy sản, phát triển giao thông thủy, tạo điều kiện đưa dân vào làm ăn sinh sống và phát triển sản xuất. Nước ngọt tràn về, đất được ém phèn không cho lừng lên, nước chảy tới đâu, ruộng lúa cũng xanh lên tới đó như những vết dầu loang. Xã Thanh Mỹ anh hùng trong chiến đấu trước kẻ thù, bây giờ dần dần đã hồi sinh, “thay da, đổi thịt” từng ngày.
Hơn hai mươi năm kể từ ngày đầu tiên tôi về quê anh. Cảnh vật, con người đổi thay đến chóng mặt. Trung tâm của tỉnh đã chuyển lên Cao Lãnh. Từ thành phố trẻ Cao Lãnh, con đường đi về xã Thanh Mỹ chỉ hơn hai mươi cây số, lại toàn là đường bêton tráng nhựa, qua huyện Cao Lãnh, rẽ xuống đường Tràm Dơi, đi ngang xã Tân Hội Trung là tới ngay địa bàn kênh 1 của ấp Lợi An, một trong bốn ấp của xã. Chạy xe honđa chỉ khoảng ba mươi phút chứ không phải ngồi tàu ê ẩm từ sáng đến chiều như ngày nào.
Còn nếu từ thị xã Sa Đéc, muốn về Thanh Mỹ cũng có nhiều ngả đường, hầu hết là đường lộ beton. Có thể qua đò Mỹ Long, tới huyện Cao Lãnh rồi đi đường Tân Hội Trung hay theo đường quốc lộ 1, vô Cổ Cò là tới thẳng chợ Thanh Mỹ, hoặc tới huyện Tháp Mười về xã cũng chỉ hơn chục cây số. Nói chung bây giờ có rất nhiều con đường để đi về xã. Dân trong xã bây giờ muốn đi Mỹ An hay tới thành phố Hồ Chí Minh hoặc đi Cao Lãnh chỉ cần vài bước ra cửa là có ngay xe đò hay xe bus ghé rước, ít phút lại có một chuyến.
Đường điện cũng đã hòa vào mạng lưới quốc gia. Không còn gia đình nào trong xã, dù chưa dư giả còn phải dùng đến ngọn đèn dầu le lói để thắp sáng hàng đêm nữa. Nguồn nước sạch cũng được kéo đến từng nhà dù dưới sông, nước ngọt tràn về đầy ắp bởi nhà nước đã cho xẻ thêm nhiều con kênh dẫn nước ngọt xả phèn. Điện thoại bàn thì hầu như nhà nào cũng có, không kể điện thoại di động được người dân sử dụng rất phổ biến.
Ngay trung tâm xã là Trạm y tế có mấy chục giường bệnh, có bác sĩ túc trực ngày đêm, sẵn sàng chăm sóc sức khỏe cho bà con. Và ngay đầu và cuối vàm là trường cấp I, cấp II cho các em học sinh trong xã đi học. Hơn chín mươi phần trăm hộ dân nơi đây đều đã xây dựng được nhà tường kiên cố, có cả một số nhà lầu dù nhà nào đất cũng rất rộng đủ xây cả mấy dãy biệt thự, không cần phải lên lầu để ở. Trong nhà đều xây nhà vệ sinh, không còn cây cầu cá ngày nào.
Chợ Thanh Mỹ không thấy một chút vết tích của ngày xưa. Khu nhà lồng chợ rộng lớn với đầy đủ các mặt hàng cần thiết phục vụ cho sinh hoạt của nhân dân. Những dãy nhà hai ba tầng san sát mọc lên. Khu dân cư nối liền chợ sầm uất, nhộn nhịp. Đèn điện sáng rực suốt đêm. Bây giờ Thanh Mỹ như một đô thị thu nhỏ, chẳng thua kém bao nhiêu ngoài thành phố.
Tới Ủy ban xã Thanh Mỹ, chúng tôi chợt gặp các anh, các chị còn rất trẻ, sử dụng máy vi tính nối mạng internet thành thạo, là cán bộ lãnh đạo của xã. Hỏi ra mới biết, gia đình họ ở gần đây, cũng đều là con em cơ sở cách mạng ngày xưa được xã đưa đi bồi dưỡng, đào tạo trở về. Thật đáng trân trọng những thế hệ nối tiếp cha anh. Họ là tài sản vô giá của đất nước. Chúng tôi rất vững tin ở những chàng trai cô gái trẻ trung, có trình độ, đầy nhiệt huyết như họ.
Chính họ sẽ viết tiếp trang sử mới của quê hương Thanh Mỹ anh hùng!.
Đây là kênh youtube chính thức của nhà văn Võ Thị Xuân Hà, xin mời đăng ký kênh tại đây: Cầm Kỳ Official
https://www.youtube.com/c/CầmKỳOfficial2022
để ủng hộ trang và nhận được thông báo mỗi khi có video mới.
Trên một số nền tảng số khác như:
Facebook: https://www.facebook.com/CamKyOfficial
Website: https://tonvinhvanhoadoc.net
Võ Thị Xuân Hà
Cầm Kỳ
Nàng Thê
Email: vtxh2022@gmail.com
Zalo & hotline: 0393 996 018