Lần đầu nghe nhà thơ Xuân Diệu đọc thơ.

Đó là dịp buổi sáng mùa hè năm 1970 (khi ấy tôi mới 10 tuổi, là học sinh lớp 5, trường phổ thông cấp II xã Hoàng Ngô, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây) – hôm đó tụi trẻ con chúng tôi chơi đá bóng ở sân vận động của huyện, thì thấy rất nhiều cán bộ, cả các thầy cô giáo cũng đạp xe đến tập trung ở Hội trường của Uỷ ban hành chính huyện Quốc Oai. Tò mò, tôi bỏ cuộc chơi, dông quần đùi, áo may ô lẻn vào hội trường nghe lỏm người lớn họp hành. Một lát sau thì tôi mới biết là mọi người đang tề tựu chờ đợi nhà thơ Xuân Diệu về huyện nói chuyện thơ. Vốn biết tên tuổi ông qua trang sách giáo khoa, nay được chiêm ngưỡng nhà thơ bằng xương, bằng thịt nên tôi cũng không kém phần háo hức chờ đợi. Thế rồi, ông cũng xuất hiện trên bục với dáng vóc khoan thai, đĩnh đạc, mái tóc bồng bềnh. Ông giới thiệu sơ lược tiểu sử của mình qua bài thơ “Mẹ ở đằng ngoài, cha ở đằng trong” với âm điệu miền Trung nhẩn nha, kéo dài nghe rất lạ. Cả hội trường chật kín người, nóng bức, không có quạt điện nhưng ai nấy chăm chú lắng nghe giọng đọc thơ sang sảng của ông. Cho đến bây giờ tôi còn nhớ ông đọc và phân tích câu thơ “Hồn anh địa chất. thời gian láng lai; ba trăm triệu năm chưa phải là dài…”. Nhưng, phải đến phần hai, khi ông giới thiệu và bình thơ của Trần Đăng Khoa thì cả hội trường xôn xao như phát cuồng. Bởi, thần đồng thơ Trần Đăng Khoa những năm 70  của thế kỷ trước quá nổi tiếng; thơ Khoa càng được thăng thiên bởi công phát hiện và bình giảng của Xuân Diệu, ông phân tích câu thơ của Khoa “ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng …” với đại ý: Cái lá đa rơi mà Trần Đăng Khoa mô tả có tính tượng thanh, tượng hình như thế quả là tài tình, thần diệu.

Nhà thơ Xuân Diệu


Ba lần đến nhà riêng gặp “Ông Hoàng thơ tình”.

Cũng do cơ duyên có dịp nghe thơ Xuân Diệu từ hồi nhỏ, với ấn tượng sâu đậm ông để lại trong tôi – thế nên, vào học kỳ 2, năm học thứ tư ở khoa Văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (Khoá 1976 – 1980), khi bước vào làm Luận văn tốt nghiệp Đại học, trong số hàng trăm đề tài về văn học Việt Nam và thế giới mà thầy cô đưa ra, tôi quyết định chọn đề tài “Thơ tình Xuân Diệu” để nghiên cứu và viết luận án. Khoa phân công thầy giáo, nhà thơ Mã Giang Lân là người trực tiếp hướng dẫn tôi soạn đề cương luận văn, thầy Nguyễn Văn Nam là người phản biện.
Bắt tay vào làm luận án này, khi tra cứu tư liệu ở Thư viện Quốc gia và Thư viện khoa ngữ văn, tôi gặp khó khăn là chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào về thơ tình của Xuân Diệu và cũng chưa có luận văn nào của các bậc đàn anh đi trước làm về thơ Xuân Diệu để mình học hỏi, tham khảo. Thôi đành phải mò mẫm vậy… Được thầy Mã Giang Lân chấp thuận, tôi viết luận văn với ba chương chính là: Thơ tình Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám, thơ tình Xuân Diệu sau cách mạng và phong cách thơ tình Xuân Diệu.
Bắt tay vào viết được già nửa luận án, một buổi chiều ở Ký túc xá Mễ Trì (Quận Thanh Xuân), thằng bạn Nguyễn Ngọc Hiếu học lớp ngôn ngữ  K21 – một tay sát gái có hạng, bỗng dưng gợi ý cho tôi: Mày làm luận văn về ông Xuân Diệu thì nên đến gặp nhà thơ mà hỏi han thêm. Nhà ông Xuân Diệu ở số nhà 24 đường Điện Biên Phủ, gần khu Ba Đình đấy.
Đắn đo và phân vân một vài ngày, cuối cùng tôi cũng “liều” mình đến tìm gặp nhà thơ lớn xem sao. Đó là một buổi chiều giữa tháng 5 năm 1980, tôi nhảy xe điện từ Thanh Xuân đến Cửa Nam, rồi tìm đến nhà ông “Nhà tôi hai bốn Cột cờ, ai yêu thì đến hững hờ thời qua”. Rất may, nhà thơ Xuân Diệu hôm đó có nhà. Tôi không thể nào quên được hình ảnh ông đứng sau cánh cổng sắt đôi mắt mơ màng nhìn dòng người tấp nập qua lại trên đường. Ông có vẻ buồn, nom cô đơn tội nghiệp làm sao. Sau khi tự giới thiệu: “Cháu là sinh viên trường Tổng hợp đang làm luận văn tốt nghiệp về thơ tình của bác…”, đôi mắt nhà thơ như sáng lên, ông ân cần nắm tay tôi và dẫn vào một thư phòng ở tầng một (gia đình nhà thơ Huy Cận ở lầu hai). Ông nhã nhặn bảo u già giúp việc pha giúp ấm trà nhài tiếp khách. Tôi choáng váng khi nghe ông nói: “Em đừng xưng hô với anh là bác nhé. Thi sỹ thì không có tuổi tác”. Tôi đáp “dạ” lí nhí nhưng ngượng đỏ chín khuôn mặt non tơ vì khi ấy tôi mới hai mươi tuổi tròn, còn ông đã ở tuổi sáu mươi tư…trong khi trò chuyện với ông đôi lúc tôi vẫn cứ thưa bác, cháu. Nhà thơ Xuân Diệu hỏi han qua tình hình học tập của tôi, rồi ông bê một chồng sách dày ra khoe: Đây là sách có chữ ký của các nhà văn lớn trên thế giới tặng anh, cuốn thì của Aragông nhà thơ lớn của Pháp, rồi đến Na Zim Hít mét nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ, nhà thơ Đimitrôva của Bungari… Tôi ngây người bái phục và rồi sung sướng nhất khi ông mang cuốn sổ tay ra bảo: “Anh còn một trăm bài thơ tình chưa in ở đâu, em chép lấy vài ba bài mà bổ xung vào luận văn. Tôi vội vàng chép được dăm bài và nghe ông lý giải bài thơ Hôn cái nhìn:
Không phải anh hôn nơi mắt
Anh hôn cái nhìn của em
Mắt anh một vầng yêu mến
Thắt anh trong lưới êm đềm.
Trước khi ra về, tôi được ông tặng cuốn tiểu luận, phê bình văn học của ông có tiêu đề Mài sắt nên kim, nhà thơ ký tặng với dòng chữ  “Thân quý tặng Nhan Sinh, người bạn tri kỷ với thơ tình Xuân Diệu” khiến sinh viên nhãi nhép  như tôi gần như nhảy cẫng lên vì xúc động, tự hào.
Có thêm tư liệu nghiên cứu, và được sự động viên khích lệ của thi nhân tôi dồn sức trong nửa tháng viết xong luận văn dày 70 trang. Sau khi thuê đánh máy 4 bản, tôi lại rụt rè mang đến nhà Xuân Diệu biếu ông đứa con tinh thần của mình, ông hẹn một tuần sau tôi đến chơi để ông góp ý, nhận xét. Lần gặp này, ông hỏi han tôi có người yêu chưa và căn dặn chân tình: “Em không nên lấy vợ sớm, sau này lập gia đình cũng nên đẻ một, hai con thôi, dân Việt mình đẻ nhiều như gà ri ấy, nhếch nhác và khổ lắm. Em phải chiụ khó học ngoại ngữ vào nhé, sinh viên ta yếu ngoại ngữ lắm, muốn thành tài, bước ra thế giới phải tiếng Anh, tiếng Pháp.”- Tuổi trẻ bồng bột và ham chơi, tôi vâng dạ cho qua chuyện chứ chưa ý thức được lời dạy chí tình của ông dành cho lớp trẻ.
Đúng lịch hẹn, cuối tháng 6-1980, tôi đạp xe đến nhà Xuân Diệu để nghe ông nhận xét, đánh giá về bản luận văn. Với tâm trạng hồi hộp, lo âu tôi nem nép ngồi ghế nhìn ông đi đi lại lại trong căn phòng với thái độ bực dọc. Quả thực , tôi bị ông xạc một trận ra trò vì chương viết về thơ tình Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám, tôi phê phán nặng tay cái tôi uỷ mỵ, tiểu tư sản của tác giả “Thơ Thơ” và “Gửi hương cho gió” theo đúng quan điểm của các học giả Mác-xít thời ấy. Ông chép miệng và lắc đầu bảo: Sinh viên các em cứ rập khuôn theo quan điểm của các thầy, các nhà nghiên cứu phê bình đánh giá thơ lãng mạng giai đoạn 1930- 1945 như thế là giáo điều, là Mao ít. Rồi ông còn phồng má, nói gay gắt về giáo sư Vũ Đức Phúc, Viện trưởng Viện Văn học thời ấy. Rất may, tôi bớt hoảng hồn khi ông chuyển sang phần nhận xét tôi viết về thơ ông sau cách mạng tháng Tám và khảng định phong cách thơ tình Xuân Diệu. Lúc đó, ông trở thành con người khác hẳn, khuôn mặt tươi tắn trở lại, tự tay ông pha cà phê và bóc kẹo ngon mời tôi ăn. Rõ là nhà thơ dù lớn đến đâu cũng cứ thích người khác tâng bốc mình. Ở hai chương viết này, tôi ngợi ca ông hết lời, trích dẫn và bình luận những bài thơ, câu thơ hay nhất của ông viết về tình yêu. Ông bảo: Chú em thẩm thơ tinh tường đấy, người anh gọi duy nhất “Ông Nhỏ” là Trần Đăng Khoa, nay phải gọi thêm Nhan Sinh là “Ông Nhỏ”. Chẳng biết ông hứng khởi khen tôi có thật lòng không, nhưng cánh mũi tôi thì nở phập phồng.
Cuối buổi, Xuân Diệu hỏi tôi có dự định công tác ở đâu sau khi ra trường, tôi đáp: Em đang băn khoăn chọn lựa vào dạy ở Trường Đại học Tổng hợp Huế hoặc về Thông Tấn xã Việt Nam. Nhà thơ liền gạt phắt, em tuyệt đối không nên đi làm báo, nghề báo giết mất văn chương. Nếu em dạy đại học, chuyên sâu nghiên cưú thơ tình Xuân Diệu thì anh tặng em bản thảo cả 4 tập thơ Lan, Cúc, Trúc, Mai mà anh dự định xuất bản nay mai. Tôi lễ phép cám ơn và hứa nghe theo lời khuyên của ông.
Nhưng, hỡi ôi, tôi là đứa học trò thất lễ với nhà thơ Xuân Diệu. Do bản tính thích lang thang đây đó, sau khi bảo vệ luận văn được điểm 9 và tốt nghiệp đại học, tháng 7/1981 tôi xin vào Thông tấn xã Việt Nam công tác và hăng hái đi Sơn La làm phóng viên Thường trú. Ba năm sau đó tôi lấy vợ và có con trai đầu lòng khi mới hai mươi tư tuổi. Dù hàng năm đều nghỉ phép ở Hà Nội, nhưng tôi không dám vác mặt đến gặp nhà thơ lớn Xuân Diệu bởi ba điều dạy bảo chí tình của ông tôi đều làm ngược: Lấy vợ sớm, lười học ngoại ngữ và đi làm báo.
Ngày 18 tháng 12 năm 1985, Xuân Diệu – ông Hoàng thơ tình Việt Nam về cõi vĩnh hằng tại Hà Nội ở cái tuổi 69. Từ Tây Bắc xa xôi, tôi thắp nén nhang thơm để tưởng nhớ đến ông và cũng tạ lỗi không gặp được ông lần cuối.

Hoà Bình ngày 8/4/2012


Nhan Sinh
Trưởng Phân xã TTXVN tại Hoà Bình

Nguồn: TCNV