Kể từ lúc gặp cô gái mồ côi gầy gò có tên là Hồi Tú ấy lão Lưu gù cảm thấy đầu óc mình hình như đã có vấn đề, giống như năm nào cảm giác trong rừng rậm Đông – bắc lão đã ăn nhầm phải một thứ nấm màu vàng rực. Ảo ảnh và suy nghĩ như nghìn vạn con châu chấu ập đến cắn xé khiến thân thể lão đầy thương tích, tim lão thủng vạn lỗ như tổ ong, máu huyết bầy nhầy. Lão cảm thấy hai tay và đôi chân mình đã hoàn toàn mất đi sự chuẩn xác, hình như là lão đã mượn chân tay của ai đó để gắn vào thân thể mình. Nước trong thùng âm ỉ, nước trong nồi sôi đến độ vón lại như nham thạch những vết cáu bẩn trên vành miệng nồi không thể dùng xẻng cạy được, cái vỉ nhòe nhoẹt, bánh bột không thể chín, đậu phụ xào rau hẹ nhạt thếch đến độ chẳng dám cho vào miệng nữa. Anh em dân công đều bảo lão bán muối lâu nay đã chết, bảo hồn phách lão đã bị hồ ly tinh hớp mất rồi. Dương Lục Cửu cảnh báo lão rằng, cóc chết đừng có mơ ăn thịt thiên nga, rủ rê mụ Bạch Kiều Mạch dở trẻ dở già còn có chỗ để mà dung thứ, lôi kéo cô bé Hồi Tú đáng thương và trinh bạch kia phải là trách nhiệm của đám thanh niên, còn lão chẳng qua chỉ là dê già mơ ăn cỏ non, đáng để tùng xẻo thành muôn ngàn mảnh. Trái tim Lưu gù bị Dương Lục Cửu chém cho một nhát dao chí tử, dòng máu đen nhơ nhớp túa ra. Lão giơ con dao thái rau lên, nhắm Dương Lục Cửu nhào tới. Dương Lục Cửu chạy trối chết.

Nước da, thân hình và đặc biệt là đôi mắt lá răm buồn buồn của cô gái có tên là Hồi Tú khiến lão bủn rủn chân tay. Cô ta vừa xuất hiện trước cửa lán là Lưu gù như hứng phải một ngọn giáo đâm vào ngực, như bị giáng một gậy thí tử, choáng váng mơ hồ, đất trời nghiêng ngả. Tiếp theo là một luồng khí nóng rực chạy lên đến đỉnh đầu lão. Dương Lục Cửu cùng với mụ đàn bà vú to mông nở Bạch Kiều Mạch đang lả lơi cợt nhả; Hồi Tú đứng dưới ánh mặt trời, thân hình con bé chẳng khác nào một ngọn đuốc đang cháy khiến lông tóc trên người lão như khô queo lại, tròng mắt trợn trừng bất động. Con bé sao mà giống với người vợ đã ôm con bỏ lão mà đi! Ngày ấy, để tìm vợ, lão đã chạy khắp ba huyện, cuối cùng thì cũng tìm ra. Lão nhớ mang máng rằng, hình như nơi ở mới của vợ lão là thôn làng hẻo lánh có tên Mã Tang, lúc ấy lão thảm hại vô cùng, bị người ta xua đuổi, thân phận lão chẳng khác nào một con chó hoang…

Khi rời khỏi lán, Dương Lục Cửu không thèm đóng chiếc cửa ghép bằng bốn thanh cây có bện cỏ lau lại nên trông cái lán ăn lúc này giống hệt một chiếc mồm bị sứt mất mấy chiếc răng cửa. Hai luồng ánh trăng chiếu vào trong lán từ hai lỗ hổng to hơn bàn tay trên vách lá phía nam, một luồng chiếu thẳng vào ngực lão, một luồng chiếu lên đất, ngay đầu con chó nhỏ. Nó đang cuộn người nằm im nửa ngủ nửa thức, thi thoảng lại rên lên ư ử như đang nhớ mẹ. Vì lưng bị gù nên lão không thể nằm ngửa, lúc nào cũng phải nằm nghiêng. Những chuyện cũ tưởng đâu đã bị quá khứ vùi lấp không ngờ lại hiện ra rõ ràng trước mắt, mở mắt cũng thấy, nhắm mắt lại càng rõ ràng hơn.

Ngày ấy, lão mới chỉ là một thanh niên chưa đầy ba mươi nhưng đã từng xông pha nơi vùng Quan Đông trở về làng vứt ra năm trăm đồng để gọi là cưới cũng được, gọi là mua về một cô gái mười tám tuổi xinh đẹp cũng xong. Cô gái này về nhà lão không cười không nói, mặt mày lúc nào cũng như bị khóa im ỉm, bất động. Lúc ấy lưng lão đã có hiện tượng cong rồi, nguyên do là vì bị một thân cây to lớn ở Trường Bạch Sơn đè phải, xương sống kêu lên lục cà lục cục. Lão biết tuổi tác của mình không còn trẻ, sức khỏe cũng chẳng ra làm sao nên luôn canh cánh một nỗi lòng là cô gái kia quá nhiều thiệt thòi nên nghĩ ra trăm phương nghìn kế để an ủi, để đền bù cho cô ta. Ngày rộng tháng dài, trứng ngỗng đá cuối cùng rồi cũng được ủ nóng lên và ngỗng con sẽ chui ra. Cô ta sinh cho lão một đứa con gái khô đét như một thiếc gậy, đặt tên là Lý Man, bởi ngày cô ta đẻ lão đang ở trên sông dùng xiên bắt được một con lý ngư – tức cá chép nặng hơn ba cân. Lão đem con cá ấy nấu một nồi canh thật đặc biệt cho người vợ mới sinh con. Có đứa con rồi, người vợ trẻ ấy mới nở nụ cười đầu tiên. Lão vẫn là người kiếm sống bằng những công việc nặng, khỏe mạnh nổi tiếng, xem vợ con như đôi chim kim tước quý hiếm, nhốt vào lồng son mà nuôi mà ngắm, gió chẳng động đến, mưa chẳng sa vào. Sau khi sinh con, vú của người vợ trẻ càng cao lên, mặt mày thân hình đầy đặn hẳn lên. Lão van nài, mẹ con Lý ơi, hãy đẻ cho tôi một đứa con trai! Cô vợ trẻ không trả lời, chỉ cười nhẹ và nhìn đứa con gái đang ôm vú mẹ bú ngon lành trong lòng mình. Có lúc, hình như cô ấy cố ý để cho bầu vú lộ hẳn ra ngoài và con bé vội vội vàng vàng ôm chầm lấy như sợ vuột mất trước mắt ông bố tham lam. Hồi Tú giống cô ấy quá, giống như cô ấy khi mới về nhà lão, như hai giọt nước, khó phân biệt chân giả, cũng thân hình dong dỏng gầy gầy, cũng khuôn mặt lúc nào cũng buồn buồn dễ khiến người ta sinh thương cảm. Chỉ chớp mắt mà đã mười tám năm, nếu Lý Man còn sống thì cũng đã lớn chừng này rồi. Chuyện đời như một vở kịch, biết đâu rằng cô bé có tên Hồi Tú này lại là con mình chăng? Mơ tưởng hão huyền! Mày đang nằm mơ đấy Lưu gù ơi! Xóm ấy không phải là thị trấn Mã Tang, cũng không thể nhớ là đằng sau xóm có một con sông gọi là Mã Long. Địa phận thay đổi liên tục, chỗ này cách nhà mình đến hơn bốn trăm dặm. Ngày ấy cả thiên hạ là một nhà, đi đến đâu ăn đến đấy, ăn cơm không cần phải trả tiền, chỗ ăn có khắp mọi nẻo đường. Khi chạy qua những đám đậu vàng, những trái đậu khô giòn kêu lách tách và những hạt đậu bắn lên tung tóe rất cao, rất xa… Dưới rốn của Lý Man có một nốt ruồi màu đen to bằng đầu ngón tay. Người ta thường bảo, con gái mà trên người không có nốt ruồi, không có vết chàm nào thì sẽ là một con la. Trên lưng của vợ lão có đến bảy nốt ruồi, cô ấy đã từng nửa đùa nửa thật nói với lão rằng, số của cô khi mới sinh ra là phải chịu khổ, cả đời cô phải đeo theo bảy nốt ruồi ấy. Tục ngữ có câu: “Người đeo nốt ruồi, chẳng mặc được quần tử tế, nốt ruồi bỏ người, chung với la ngựa một đàn”…

Luồng sáng của ánh trăng đã chuyển từ ngực lên mặt lão không biết tự bao giờ. Theo luồng ánh sáng ấy nhìn lên, lão chỉ thấy một màu đen, đôi mắt tự nhiên cảm thấy lạnh như băng. Cánh đồng hoang vào lúc nửa đêm đã xua tan hoàn toàn chút nhiệt độ tích lũy từ ban ngày, mùi tanh của đất ngấm phèn càng về khuya càng trở nên đậm đặc, tiếng nước sông chảy rì rào như tiếng khóc đàn bà. Trong lán ngủ của anh em dân công có tiếng thì thầm của ai đó. Bọn họ đã bị hành hạ đến độ khổ sở vì chuyện ăn uống. Lão cũng chẳng muốn ngày nào cũng cho anh em ăn đậu phụ xào rau hẹ đâu, nhưng Dương Lục Cửu ngày nào cũng mua đậu phụ của mụ béo, còn lão ngày nào cũng mua rau hẹ của Hồi Tú. Nhưng không ăn của ấy thì cũng chẳng còn gì để ăn, có tiền cũng không đào đâu ra thịt để mua. Hồi Tú lúc nào đi sau lưng Bạch Kiều Mạch, dáng đi rụt rè sợ sệt trông chẳng khác nào một con chó nhỏ theo sau chân chủ. Cấp trên trợ cấp thêm cho toàn đội dân công làm đường mỗi ngày năm hào, không biết tư lệnh Quách đi đến tận đâu để lĩnh về, cấp trên cũng hỗ trợ thêm mỗi ngày một ký ngô và hai lạng bột mì trắng, không biết tư lệnh Quách đi đến tận đâu để thuê xe kéo về. Tư lệnh Quách rất tín nhiệm lão, giao cho lão tay hòm chìa khóa của toàn đội. Để kiếm sống, lão đã từng làm nhiều công việc khác nhau: khai thác gỗ trong rừng rậm Trường Bạch Sơn, khai thác quặng ở Nam Sơn, làm cầu ở Bắc Hải…, nói chung là hơn nửa đời phiêu bạt. Quãng thời gian hạnh phúc nhất do năm trăm đồng đem lại trôi qua như chớp mắt. Lão quên mất rằng con đường này bắt đầu khởi công từ bao giờ, cũng không biết điểm đến của nó là nơi nào. Ánh trăng ngày càng lạnh làm lóa mắt lão. Một lần nữa, mắt lão lại lần theo luồng sáng của ánh trăng để nhìn lên trời cao, và một lần nữa lão cũng chỉ thấy một màu đen.

Mười tám năm trước, lão bị điều đến Nam Sơn để khai thác quặng sắt. Chuyến đi ấy biền biệt đến ba tháng. Ngày đi đúng vào đầu mùa hạ, lúa mạch vừa mới gặt xong, cánh đồng toàn trơ gốc rạ đã bắt đầu ươm mầm. Người đàn bà của lão đóng kín cổng đứng tắm giữa sân, còn lão thì ôm con bé ngồi trong nhà nhìn ra. Dụng cụ tắm của cô ta là một chiếc chậu sành đen đúa, một chiếc khăn tắm màu xanh sản xuất từ Liên Xô. Cô ta nhúng khăn vào chậu nước rồi vắt lên cổ, mấy dòng nước lã chã chảy dọc theo sống lưng. Bảy nốt ruồi to tướng lên lưng cô ta sao mà giống chòm sao Bắc đẩu. Nước không thể đọng được trên làn da nõn nà của đàn bà, giống như nước chảy trên lá sen, cũng giống như nước đổ đầu vịt, chảy thành dòng xuống đất. Con bé đang mút tay bỗng nhiên cười lên khèn khẹt. Khi từ Nam Sơn quay về, rừng hồng dưới khe núi đã đổi màu đỏ rực. Trên con đường núi gồ ghề, lão vừa đi vừa nghĩ tới vợ và con gái. Ba tháng không gặp rồi, con gái chắc là đã biết gọi bố. Lão đi như chạy mà không hề có cảm giác mệt mỏi gì, nỗi nhớ như có lửa đốt trong lòng khiến đôi chân của lão bước nhanh thoăn thoắt. Từ Nam Sơn về đến nhà phải đi qua hơn trăm cây số, phương đông vừa chớm hồng là lão khởi hành, tới đầu làng chỉ vừa nửa đêm. Buổi trưa hôm ấy lão ăn no căng một bụng khoai lang luộc ở một nhà ăn bên đường, chỉ vào ăn, chẳng có ai hỏi han lấy một lời. Những năm ấy gương mặt ai cũng ngây ngây độn độn, ai cũng có dấu hiệu của sự sắp chết, dường như trông ai cũng có vẻ quen biết nhưng cũng vừa xa lạ hoàn toàn. Hình như lão có đi ngang qua một cái chợ trông rất hỗn loạn và nhớp nhúa, người đi chợ đông đúc, chen vai thích cánh nhau, chẳng ai hỏi ai, hình như ai cũng có những bận rộn và toan tính riêng của mình. Bước đến đầu làng, lão thở một hơi dài khoan khoái rồi ba chân bốn cẳng chạy về nhà. Lão không để ý đến hai cánh cổng đã không còn, chạy thẳng vào sân, tưởng tượng ra nụ cười của vợ và con. Cửa nhà trông như một chiếc miệng đang há, cánh cũng không còn, lúc này lão mới giật mình kinh sợ. Đứng ở giữa sân, dưới ánh sao đêm mờ mờ tỏ tỏ lão réo gọi: Mẹ Lý Man ơi! Chẳng có tiếng ai trả lời, lại ráng sức gọi to lên mấy tiếng nữa, chỉ có mấy con mèo hoang từ trong nhà chạy ra, phóng vút lên bờ tường, đứng sắp hàng trên đó, cong đuôi kêu lên inh ỏi. Lòng lão lạnh ngắt, mũi lão hít phải một thứ mùi tanh tanh bốc lên từ đất bùn đọng lâu ngày.

– Mẹ của Lý Man! Mẹ của Lý Man ơi!

Lão kêu lên trong tuyệt vọng tột cùng rồi xông vào nhà. Mùi ẩm mốc, mùi hoang phế xông lên. Mấy con chuột chạy đuổi nhau trên xà nhà, cắn nhau chí chóe, cứt đái văng đầy mặt lão. Thò tay vào túi lấy hộp diêm, lão run rẩy đánh lửa. Đồ đạc trong nhà ngã đổ chỏng chơ và hư nát, tủ giường rương hòm đều vẫn còn nhưng bụi đã đóng một lớp dày và loang lổ vết chân chuột. Que diêm đã tắt, trước mắt lão chỉ là một màn đêm đen kịt, một con dơi đập cánh bay vào trong và nhập bọn với những con chuột trên xà nhà. Lão đánh tiếp một que diêm nữa. Trong ánh lửa chập chờn, lão trông thấy mấy mảnh bát vỡ nằm trên nền nhà, trên chiếc dây treo quần áo vẫn còn một chiếc tã lót. Lão đã tìm được chiếc đèn dầu, đốt lên và cầm đèn đi khắp nhà một lượt. Lão mở chiếc tủ quần áo. Quần áo của lão vẫn còn, nhưng quần áo của vợ và con lão thì hoàn toàn biến mất. Lão tiếp tục mở thạp đựng lương thực. Vẫn còn nửa thạp gạo được phủ bởi một lớp phân chuột và một nhúm tơ. Lão nhặt nhúm tơ lên, mấy cục thịt be bé đỏ hon hỏn rơi xuống và quẫy đạp trên lớp phân chuột. Lão thấy ruột mình đau quặn lại và một cảm giác buồn nôn trào lên cổ. Vội vàng quay mặt đi chỗ khác, lão nhìn thấy mấy nông cụ bằng sắt dựng trong góc nhà. Lão uể oải ngồi bệt xuống đất, trông lão lúc này giống như một bức tường đất thấm nước và sụp đổ. Chiếc đèn ngã nghiêng trên đất, dầu chảy ngoằn ngoèo ra đất, bắt lửa, một con rắn lửa đang bò trên đất. Cả căn phòng sáng rực, tất cả đồ đạc đang nhảy múa. Dầu cạn lửa tắt, bóng đêm lại bao trùm. Lão nằm ngửa dưới sàn, nghĩ: Hết rồi, hết tất cả rồi. Gia đình, vợ con, thế là mất hết. Có lẽ cô ấy không chịu nổi cảnh đơn chiếc, không thể bỏ phí tuổi thanh xuân nên đã ôm con đi theo người khác rồi! Nước mắt chảy ròng ròng trên khuôn mặt cáu bẩn bụi đường của lão và thánh thót rơi xuống.

Con chó quen thuộc của căn nhà đầu phía tây thị trấn Mã Tang lại sủa lên oang oang, tiếp theo là tiếng chó rộ lên như hưởng ứng. Một lát sau, tất cả lại chìm vào yên lặng. Mặt trăng tròn vàng vàng xanh xanh đang treo lơ lửng trên bầu trời, chếch về hướng Tây – nam. Đúng là đã nửa đêm. Gương mặt lão Lưu gù đầy nước mắt nhưng lão không dám tin là mình đã khóc. Mười mấy năm nay, trái tim lão đã bị thời gian và phong ba bão táp làm cho trơ lỳ như sỏi đá rồi, có dùng kim đâm cũng không thủng nữa. Nhưng cô bé bán rau đã rất nhẹ nhàng bóc sạch lớp vỏ cứng ấy đi để lộ ra một trái tim mềm yếu như một con ve vừa lột xác. Lão ngồi dậy, tựa chiếc lưng gù vào chiếc gối bện bằng rơm, đốt thuốc. Những suy nghĩ đau đớn, ngọt ngào mười mấy ngày qua khiến tâm trí lão lúc mơ hồ, lúc tỉnh táo. Người ấy đang đứng trước mặt lão, vẫn trẻ trông xinh đẹp như ngày nào, nước mắt lưng tròng nói: Bố Lý Man ơi! Đừng trách em! Lão mở mắt, chẳng có gì cả, cửa lán vẫn trống hoác đối diện với cánh đồng hoang hiu hắt. Tóc đàn bà đang phủ xuống mặt lão nhột nhạt, đôi bàn tay ấm mềm đang đặt trên vai lão, sờ sẫm trên ngực lão. Lão mở mắt, hai luồng ánh trăng rọi xuống nền lán, đôi mắt con chó nhỏ lấp lóa lấp lóa.

Lão đang nằm trong ngôi nhà của mình, cảm thấy thân thể mình đang tan chảy ra và bò dọc theo những vết nứt trên sàn nhà. Lão muốn nhảy lên, muốn vùng vẫy nhưng không biết là chân tay đã bỏ thân hình lão mà đi đâu mất rồi. Mệt mỏi quá sức! Khi vượt qua hàng trăm cây số đường núi, vì trong lòng có hình bóng vợ con nên lão không hề cảm thấy mệt; bây giờ vợ và con không còn nữa nên cái mệt ập đến, lão nghĩ, cứ nằm thế này và đi vào cái chết có lẽ là sung sướng nhất. Đến bình minh, lão cố gắng lung lay thân thể và bò dậy, giống như đứa trẻ tập đi, lão lảo đảo rời khỏi nhà. Xóm làng như vừa trải qua một cơn binh biến khủng khiếp, cây cối đều bị chặt ngang lưng. Phía cuối thôn, mấy chiếc lò đang cuồn cuộn khói đen. Lão lần đến nhà thím Hai, bước đến ngõ đã nghe từ bên trong tiếng nói lao xao, lão biết ngay đó là khẩu âm của người ở địa phương khác. Lão lần dò về nhà chú Sáu. Cửa sổ cửa lớn nhà chú Sáu đã mất, trong nhà chăn nệm trải đầy dưới đất, một ông già với đôi mắt vàng khè đang ngồi vá giày. Cuối cùng thì lão cũng gặp được một người quen. Người quen này bảo, tất cả người trong thôn đều chuyển đến thôn tây. Lão chạy vù về thôn tây tìm vợ con, người trong thôn bảo với lão rằng, cách đây hai tháng có một đám người từ địa phương khác kéo đến, trong đám người ấy có một tay bạch diện thư sinh, trên cổ có đeo lủng lẳng ba mũi kim hình cong cong lấp lánh, túi áo trước ngực có đeo một cây bút máy. Có người thấy vợ lão cùng với gã này dắt nhau bỏ chạy lên vùng Đông – bắc, gã trai ôm đứa bé, vợ lão chạy phía sau, vai khoác tay nải màu đỏ rực. Nghe xong lời kể của người này, lửa giận của lão nổi lên phừng phừng, thề trong lòng là sẽ bắt con mụ lăng loàn ấy quay về, tự tay đập chết thằng cha đã dám chim chuột dụ dỗ vợ người khác. Lão báo chuyện này với cán bộ thôn; họ đều khuyên lão hãy tiếp tục quay về Nam Sơn khai thác quặng. Lão vờ đồng ý, lấy từ nhà bếp một ít lương thực, co giò chạy về Nam Sơn. Được khoảng vài chục cây số thì quay ngoắt người chạy tọt vào một cánh đồng cây trái cao lút đầu người rồi băng băng chạy về hướng Đông – bắc, chạy bất kể ngày đêm, uống nước sông lạnh ngắt, nhai những miếng bánh khô cứng. Đêm đầu tiên lão ngủ trong một đám ruộng ngô. Ngày thứ hai, lão vượt qua gần trăm cây số nữa, đêm đến tiếp tục ngủ ngoài đồng. Sang ngày thứ ba, đột nhiên lão cảm thấy mình đã đến chỗ cần đến. Hai ngày qua, lão giống như một con chó săn chạy đuổi theo một mùi vị một âm thanh nào đó mà khi chạy trên đường lớn hay đi trên những con đường hẹp lão không kịp nghĩ tới, lúc này lão mới nhận ra đúng là mùi sữa ngậy ngậy trên người vợ lão dẫn lão chạy và tiếng khóc của đứa con gái như vẫn văng vẳng từ phía trước đưa lão đi. Nhưng lúc này, mùi vị và âm thanh ấy đột nhiên biến mất và lão thừa biết, đó là vì vợ và con lão đang trốn ở đâu đây gần lắm. Khi lão đặt những bước chân mỏi mệt đến đây thì vầng mặt trời đỏ to như một chiếc bánh xe đã gác sau núi, một chiếc lò đất cao vút ở phía bắc đang rực lửa làm một nửa không gian sáng rực. Chỗ nào cũng có lửa, lửa cháy ngùn ngụt khắp nơi khiến đất trời tràn trề sinh khí nhưng cũng có gì đó bất ổn. Trong hai ngày, chỗ nào lão cũng thấy mùa màng tốt tươi hoa màu đang vào mùa thu hoạch. Trên các nẻo đường, bông trắng, đậu vàng, khoai… chất chồng thành đống, không ai quản lý cũng không ai hỏi han. Quý trọng những gì do đất đẻ ra vốn là bản chất của nông dân khiến lão nhìn những đống lương thực mà cảm thấy đau lòng. Một cảm giác u ám có sắc màu xanh sậm xuất hiện từ trong sâu thắm tâm hồn lão, dự cảm về một đại nạn nhấn chìm con người xuống bùn đen sắp sửa xảy ra khiến lão run lên từng đợt. Hình như chuyện lão bị vợ bỏ chẳng qua chỉ là khúc dạo đầu của đại nạn này. Mặt trời đã lặn hẳn, ngôi làng phía trước mặt chỉ còn lại hai ống khói to tướng đang nhả khói. Những ống khói này thường được xây bằng gạch nung, trên cùng là một đoạn ống bằng sứ màu tía. Những đụn khói đen vàng ùn ùn nhả ra, không có tí gió nào nên cột khói bay lên cao đến mười mét rồi mới tản ra trông như những tán tùng cổ thụ. Lão biết người trong thôn vẫn chưa ăn tối, lão có thể vào thôn chờ được ăn cơm mà không ai thu của lão phiếu ăn nào. Nhưng lão không đủ can đảm để đường đường chính chính đi vào thôn, bèn lẩn vào trong một đám ngô, bỏ chiếc túi trên vai xuống rồi nằm ép xuống đất. Mũi lão lại ngửi thấy mùi lá tỏi tươi non thoang thoảng trong mùi thân ngô và bắp ngô đã khô vàng. Lợi dụng chút ánh sáng yếu ớt của hoàng hôn, lão cố tìm kiếm và phát hiện bên cạnh một gốc ngô có một bụi tỏi dại. Rất thận trọng, lão nhổ lên, lá tỏi rất non, đã có củ to bằng những hạt đậu lạc. Lão phủi sạch đất vài củ rồi bỏ vào miệng nhai rau ráu, mùi thơm cay nồng xông lên mũi. Tất cả những bắp ngô đã già, những thân cây khô đét khẳng khiu cố gắng đeo những quả ngô nặng trĩu, râu ngô cũng khô cong trông như râu tóc của người chết. Một cơn gió nhẹ thổi qua cũng khiến những thân ngô nghiêng ngả, kêu lạo xạo. Ăn xong vài củ tỏi, cảm thấy trong bụng vẫn trống rỗng, lão bèn quờ tay hái một bắp ngô, lột vỏ, dùng tay lấy vài hạt ngô bỏ vào miệng. Cứng quá, chẳng khác nào một hạt ngô đúc bằng sắt, không thể nhai sống được. Lão nằm trong ruộng ngô ngắm nhìn mánh trăng non trên trời vừa xuất hiện đã vội vàng lặn mất. Sao sáng đầy trời, sương bắt đầu xuống dày. Trên mình lão chỉ có một manh áo rách mỏng dính, rét không chịu nổi, răng lão va vào nhau lập cập. Đành phải vận động để xua đuổi cái rét thôi. Lão rời khỏi ruộng ngô, từ xa đã phát hiện bên đường có một đống đen lù lù. Lão rón rén tiếp cận, té ra là một lò gạch cũ, chung quanh cỏ dại đã phủ đầy. Ngón chân lão đạp phải những miếng gạch vụn nhọn sắc. Lão đang định chui vào lò gạch để tránh rét thì bỗng nghe bên trong có tiếng khóc tức tưởi của ai đó. Lão kinh sợ ngồi thụp xuống, toàn thân cứng đờ, không dám cử động. Gió thu se sắt thổi qua, mọi vật rì rào run rẩy, sao trời sáng đến nhức mắt. Tiếng khóc nghe rất trong, rõ ràng là tiếng khóc đàn bà. Lão đang kinh sợ thì nghe tiếng một người đàn ông thì thầm: Đừng khóc nữa, em gái! Lão chẳng hiểu gì cả nhưng sau này mới vỡ lẽ rằng, cô gái ấy có tên là Mạch Tử nhưng người ở vùng này phát âm tiếng “mạch” thành “muội”, đáng ra câu ấy phải là “đừng khóc nữa, Mạch Tử”. Cô gái lại càng khóc to hơn, tiếng sụt sịt hệt như đang húp cháo nóng.

– Chúng ta chạy trốn đi! – Tiếng đàn ông nói.

– Chạy đi đâu? – Vừa sụt sịt, cô gái vừa hỏi.

– Xuống Quan Đông.

– Lấy đâu ra lộ phí?

– Chúng ta trốn lên tàu hỏa.

– Nhưng em sợ, nghe nói ở Đông – bắc có gấu chột mắt chuyên ăn thịt người.

– Em chỉ biết sợ. Không trốn, cam tâm làm vợ hắn sao?

– Mẹ em đã nhận tiền của người ta rồi, em mà bỏ trốn, người ta sẽ đánh chết mẹ em.

– Thế thì em bảo phải làm sao?

– Em cứ làm vợ hắn, nhưng chúng mình vẫn bí mật gặp nhau.

– Anh không muốn như vậy, suốt đời cứ lo lắng sợ sệt, đến bao giờ mới sống đúng nghĩa là người?

– Thế thì anh này, hay chúng ta cùng chết?

– Chết thế nào?

– Uống thuốc độc, em có mang theo một chai thuốc độc đây này!

– Không, Mạch Tử, tốt nhất là chúng ta bỏ trốn.

– Em không bỏ trốn!

– Thế thì phải chết thôi… Chết thì chết vậy… – Tiếng đàn ông cười nhẹ, khô khốc, sau đó lại khóc.

Lão rón rén cầm một nửa viên gạch định ném vào trong để thức tỉnh đôi uyên ương đang mê muội, nhưng e rằng cục gạnh không thể đánh thức được đôi uyên ương đang tiến dần đến cái chết ấy nên nhẹ nhàng thả xuống, dùng hai tay ra sức móc một bụm đất trộn tro khô rồi nhắm thẳng cửa lò ném mạnh. Đất và tro kêu rào rào bay thẳng vào trong, tiếng khóc và tiếng nói trong lò câm bặt, hai bóng đen trước sau xuất hiện ngay trước cửa lò.

Rất nhiều năm sau này, lão vẫn nhớ mãi về bụm đất ấy. Chuyện tương tự như vậy trong đời người khó có được lần thứ hai. Sau khi hai cô cậu trẻ tuổi bỏ đi, lão mò mẫm đi vào trong lò sờ soạng và phát hiện ra một chiếc đệm bện bằng thân cây lúa mạch, ở trên đó vẫn còn vương hơi ấm của hai cô cậu kia. Lão ngã người trên nệm ngủ ngon lành, ngủ đến độ toàn thân tê dại, căng cứng. Khi lão tỉnh dậy thì mặt trời đã lên, ánh nắng chiếu thẳng vào trong lò. Lão bò ra khỏi lò gạch và lẩn vào trong một khoảnh ruộng cao lương cạnh đường đi, ngồi bó gối chờ cơ hội. Thanh niên nam nữ đi lại trên đường rất đông, lão chẳng dám hành động. Sau đó, lão trông thấy hai đứa trẻ, một trai một gái từ trong thôn đi ra, đứa con gái dắt một con dê đen nhảy chân sáo trên đường; đứa con trai đeo một chiếc sọt tay cầm một chiếc liềm cong cong, vừa đi vừa hát một bài đồng dao: Thôn Mã Tang dài ba dặm. Phạm Tây lộ ôm lấy mẹ Hà. Bố con Hà chỉ là con dê gấm… La la la, lá la la… Thôn Mã Tang rộng hai dặm. Phạm Tây Lộ ôm vai mẹ Hà. Ông bố Hà đau nhói… Lá la la, lá la la… Từ trong đám cao lương, lão nhảy vọt ra, thằng bé nuốt vội những câu đồng dao xuống bụng, nhảy lui một bước. Con bé kêu lên một tiếng, vất chiếc thừng buộc cổ con dê; con dê vươn cổ gặm cỏ bên đường.

– Hai cháu đi chăn dê à? – Lão Lưu hỏi.

– Cháu cắt cỏ, em gái cháu chăn dê.

– Vào công xã rồi, chăn dê của ai?

– Bố cháu là thôn trưởng.

– Ôi chao, dê của nhà thôn trưởng!

Lão ngắt một chiếc lá cao lương vẫn còn xanh đưa đến trước mũi con dê, nó hiếu kỳ ngửi ngửi bàn tay lão, đưa lưỡi liếm chiếc lá rồi nhai ngon lành. Thằng bé hỏi:

– Chú làm gì vậy?

– Chú luyện gang thép.

– Trông chú như một con chó đặc vụ. – Thằng bé nói.

– Cháu lớn lên sẽ là một bộ đội tốt, đi giải phóng Đài Loan. – Lão nói lấy lòng. Con bé hát: Tích tích tắc, tích tích tè. Bắc Kinh gọi điện đến. Bảo tôi đi bộ đội. Tôi vẫn chưa kịp lớn. Chờ tôi lớn chút nữa. Đài Loan giải phóng thôi!

– Giải phóng không nổi đâu, vẫn phải chờ các cháu.

– Xuân Nhi, đi thôi! – Thằng bé nói.

– Các cháu, gượm đã! Cho chú hỏi thăm một người… Trong thôn của cháu có người đàn bà cao cao gầy gầy bồng một đứa con gái cũng gầy từ nơi khác đến khoảng hai tháng trước đây không?

– Cháu không biết. – Thằng bé lắc đầu khôn ngoan nói.

– Cháu biết! – Đứa con gái nói.

– Tiểu Xuân! – Thằng bé quát lớn.

– Đứa con gái tên Lý Man! – Đứa con gái nói tiếp.

– Tiểu Xuân! Mày nói quá nhiều rồi đấy! – Thằng anh nạt em gái.

Lão lấy từ túi ra một con khỉ bằng đá đưa cho thằng bé, nói: Anh bạn nhỏ, nói cho chú biết, chú là công an, còn người đàn bà kia là đặc vụ, cháu nói đi, bà ta ở chỗ nào? Thằng bé ngần ngần ngại ngại cầm lấy con khỉ, nói: Chú đừng nói với ai là cháu nói nhé. Bà ấy ở phía sau nhà ăn tập thể, trước cổng nhà là đoạn sông cong, trên sông vẫn còn nước. Mẹ cháu giặt quần áo ở đấy vẫn thường nói chuyện với bà ấy. Mẹ cháu bảo cháu gọi bà ấy bằng thím.
Lão lủi nhanh vào đám cao lương, hưng phấn đến độ lông tóc muốn dựng ngược cả dậy, chỉ tiếc là mình không đủ sức để bay thẳng vào trong thôn.

Bỗng nhiên lão nghe có tiếng bước chân chạy rầm rập chẳng khác nào một bầy trâu sổng khỏi chuồng bên ngoài lán. Lão nghiêng đầu, nhìn thấy mấy chục bóng người đang đổ vào nhau thành một đống nhờ nhờ trên đất, lại có một sợi dây bện bằng tơ lấp loáng, gắn liền với nó là một con chó đen to tướng.

Lão Lưu gù rời khỏi tấm ván, loạng choạng xỏ chân vào giày, bước ra cửa lán. Tôn Ba dắt con chó, còn đám đông đang cố ghìm tâm trạng cực kỳ hưng phấn, thở phì phò. Tôn Ba vừa nới lỏng sợi dây, con chó có bộ lông đen mượt đã phóng vọt lên, bốn chân bay trên không, chòm lông trắng dưới bụng sáng lấp lóa. Rất nhanh nhẹn, Tôn Ba cúi gập người, con chó chụp vào khoảng không, rơi bịch xuống đất. Tôn Ba thít chặt sợi dây, đầu con chó bị nhấc lên, tiếng kêu ằng ặc từ trong bụng dừng lại ở cổ họng, chẳng khác nào một đứa trẻ uống phải thuốc đắng.

– Mau đến đây đi! Mẹ kiếp! Các người xông vô đánh chết nó đi! – Tôn Ba kêu lên the thé.

– Mau đi tìm cái gì đó lại đây! – Dương Lục Cửu quát lớn.

Mọi người tán ra khắp mọi nơi, rồi xẻng, chĩa ba… được mang đến, họ vây quanh Tôn Ba và con chó.

– Quây thành vòng tròn! – Dương Lục Cửu hét – Chớ để cho nó chạy thoát!

Mấy chục con người với đầy đủ vật dụng lao động bằng sắt trong tay rùng rùng sắp thành một vòng tròn rồi chầm chậm áp sát con chó. Tôn Ba thả lỏng dây tơ rồi vọt ra khỏi vòng. Con chó ngồi chồm hổm trên đất, đầu ngẩng cao, đuôi giận dữ vung tít quét tung bụi đất và ánh trăng trên mặt đất. Trong hai con mắt đau đớn của nó có hai đốm lửa lân tinh xanh lè, lông trên sống lưng đang chuyển động như những đợt sóng. Vòng tròn càng bị thu hẹp, ai cũng rón rén thận trọng, ai cũng chờ đợi một nhát đánh đầu tiên của người khác. Con chó tru lên những tiếng não nùng khiến người ta phải động lòng. Nó run rẩy trước những bóng người to cao, nhưng sự phẫn nộ đã khiến nó linh hoạt hẳn lên. Móng trước của nó đụng phải một tảng thịt mềm mềm như đất sét dính, bèn ra sức cào mạnh. Ai đó kêu lên một tiếng thê thảm, ngã lăn ra đất. Con chó quay ngoắt lại, nhắm vào một người xông thẳng đến. Khi thân hình của nó đang bay trên không thì sợi dây nối từ trong cuống họng nó ra ngoài căng lên, toàn thân nó cong vẹo, nặng nề rơi xuống. Đúng lúc chuẩn bị tiếp đất thì ngay trên đầu nó, một vật gì đó lấp lóa kèm theo là tiếng gió rít, cuối cùng là tiếng sắt đập vào xương đầu vang lên. Không gian tràn ngập mùi máu tươi tanh nồng. Người bị con chó cào phải đang đứng léo nhéo gì đó bên ngoài, Dương Lục Cửu gằn giọng:

– Mày đúng là đồ ngu xuẩn!

Tôn Ba đang ngồi thụp ở ngoài vòng, trông gã lúc này chẳng khác một nấm mộ nho nhỏ. Chiếc dây ngoằn ngoèo nối gã với con chó đã chết đang nằm trên đất…

Lão không muốn nghĩ gì nữa hết, chỉ muốn xông thẳng vào thôn giằng vợ con mình lại rồi đánh cho thằng nhóc có đeo bút máy nơi ngực ấy trở thành tàn phế để hắn không còn cơ hội dụ dỗ vợ người khác nữa. Một bầy chim đang bay vút trên trời ỉa những bãi phân nửa trắng nửa đen rơi vào cổ lão. Lão ngước mặt lên, xuyên qua tán lá cao lương dày, nhìn theo chúng và răng lão tự nhiên nghiến mạnh, chẳng khác nào đang nhai đầu một con chim trong miệng mình. Trong không khí trong lành của buổi sáng sớm, bầy chim như những viên đạn phóng vù qua rồi mất hút giữa trời cao. Lão ngắt một chiếc lá cao lương chùi bãi phân trên cổ, cơn giận dữ cũng đã qua. Lão nhồi thuốc vào tẩu rít một hơi thật dài, rút chặt dây giày, kéo mạnh thắt lưng. Lúc này lão mới nhận ra bụng mình đã tóp lại rất nhiều, trong bụng trống không nhưng lão lại không hề có cảm giác đói. Người ta đã lục tục ra đồng, lão hít một hơi thật dài rồi nhắm hai ống khói trong thôn đi thẳng.

Đường làng yên ắng. Lửa vẫn đang cháy phừng phừng trong chiếc lò cao phía cuối thôn, lão nghe thấy cả tiếng lửa phần phật và tiếng người hô, một giọng cao, một giọng thấp. Lão không hiểu tại sao làng này vẫn còn rất nhiều cây to cao, cành lá vàng vọt, thi thoảng vẫn có chó gà chạy ngoài đường. Quả nhiên đằng sau ống khói có một khúc sông cong hình chiếc vỏ trai, hai bên bờ mọc đầy cỏ hương bồ cao quá đầu người, những lá non màu vàng vàng uốn cong ngả nghiêng theo dòng nước, mấy chiếc cọc màu cam cắm giữa sông như những cây nến đâm thẳng lên trời. Lão quan sát địa thế xong, quyết định đi men theo bờ sông, thi thoảng cúi đầu nhìn xuống nước mới thấy dưới đáy sông một chiếc bóng gầy guộc và còng queo chẳng khác nào một con khỉ mới biết là mình đã từ bỏ hình hài con người, trong lòng cảm thấy chua xót vô cùng. Nước rất trong nhìn thấy cả dưới đáy sông có một tầng trứng ếch nhái trông như một lớp lúa dày. Có hai người đàn bà trung niên xuất hiện trước nhà ăn tập thể.

Lão đánh bạo rời khỏi góc tường đang ẩn nấp, bước đến trước mặt hai người đàn bà, hỏi: Hai chị ơi! Làm ơn cho hỏi, có một cô gái từ nơi khác đến nhà ở nơi nào? Hai người đàn bà nhìn nhau, một người có khuôn mặt gầy lắc đầu nói: Không biết! Nói xong thì quay ngoắt người bước đi. Người đàn bà đi sau tóc búi thành một búi nhỏ, bàn chân to bè, gương mặt thiện lương quay lại nhìn lão, hất hàm về phía bắc của khúc sông cong, nơi có bức tường bao quanh một ngôi lầu nhỏ. Ngay lập tức lão đã hiểu ra, đi men theo bức tường và chờ cho hai người đàn bà quay lưng trở lại nhà ăn là lập tức nhào đến cổng của ngôi nhà lầu, đẩy mạnh. Cổng khóa, không thể mở được. Ước lượng bức tường chỉ cao ngang đầu người, lão bèn vươn tay chụp lên đầu tường và chỉ cần một cú nhún mình, thân hình lão đã vắt vẻo trên đầu tường. Thêm một cú tung người nhẹ nhàng, lão đã đặt chân xuống sân. Hai chân chưa kịp đứng vững, bên tai lão đã vắng lên tiếng cười của trẻ con từ trong nhà vọng ra, tiếp theo là tiếng cười của đàn bà. Lão cảm thấy có một con dao thật sắc bổ thẳng xuống đầu mình và thân thể lão tắm trong máu huyết bầy nhầy. Giống như một người đang bơi tuyệt vọng trong dòng nước chảy xiết đục ngầu, lão xông vào nhà. Hai cánh cửa mỏng tang bật sang hai bên trước sức mạnh của đôi vai lão. Trong chớp mắt, lão nhìn thấy người đàn bà từng là vật sở hữu của mình lúc này đã thuộc về người khác đang lăn lộn vui đùa với đứa con gái của mình. Ba tháng trời không gặp, hình như cô ta đẹp hẳn lên trước mắt lão. Người đàn bà lặng đi trong chốc lát, gương mặt chẳng khác nào đám mây lấp lóa dưới những ánh chớp của sấm rền. Đôi mắt lão đảo một vòng nhằm tìm kiếm thằng đàn ông có đeo ba mũi kim hình cong cong lấp lánh. Không có! Lão vọt lên giường, chụp lấy mái tóc rất dài của người đàn bà và chỉ cần dùng sức hất mạnh, cô ta đã nằm lăn dưới đất.

– Về với tôi! – Cố nén giọng cho thật thấp, lão gào lên.

– Không! ông là đồ chó hoang! – Người đàn bà căm hận nói.

– Về hay không? Không về, tôi giết cô!

– Giết tôi đi! Ông cứ giết chết tôi đi!

Đúng lúc ấy, lão nghe có tiếng mở cổng rất gấp gáp, chẳng suy nghĩ gì nữa, lão nhằm eo lưng người đàn bà đạp một cú thật mạnh. Eo lưng cô ta mềm đến độ lão cảm thấy mình đạp vào hư không nhưng người đàn bà lại kêu lên đau đớn, lăn đến tận chân bàn. Lão vơ một tấm chăn đơn trên giường bọc vội con bé đang khóc oa oa kẹp vào nách. Khi đi ra cửa, thuận tay lão chụp lấy chiếc chậu đựng tro bên cạnh bếp lò và đứng nấp sau cánh cửa. Lão nghe tiếng gọi rất lớn và cánh cổng lay động dữ dội. Cuối cùng thì hai cánh cổng cũng mở bưng ra và đúng là một gã thanh niên mày thanh mắt sáng vọt vào nhà đầu tiên. Cánh tay cầm chiếc chậu của lão vung lên nhằm thẳng vào khuôn mặt trắng. Lão nghe thấy tiếng va đập của thiếc và thịt người, gã thanh niên tuấn tú chỉ kịp ôm lấy mặt và lăn sang một bên. Ngoài cổng, một đám đông hỗn loạn chặn mất đường tháo chạy của lão, chiếc chậu thiếc trên tay lão lại vung lên loạn xạ, đám dông dạt về hai bên. Lão chạy giữa dòng người, nhà cửa và cây cối hai bên nghiêng ngả theo bước chạy của lão…

– Ông Lưu! Dậy đi, giúp một tay nào! Thịt chó làm xong ông có ăn hay không? – tiếng Dương Lục Cửu vang lên.

Lai Thư treo con chó lên chiếc trụ đứng của căn lán. Khi đã chết con chó càng có vẻ to lớn và hung dữ. Cái đuôi to đùng của nó phết xuống đất, đôi mắt trắng dã vẫn đảo qua đảo lại, cái miệng ngoạm đầy đất vàng đang sùi bọt trắng hếu, chòm lông trắng trên bụng bê bết máu. Trong ánh đèn nhập nhoạng, vết thương trên đầu con chó đang rỉ máu ròng ròng, màu máu tươi rói như màu quả anh đào. Tôn Ba liếc con dao thật kỹ trên miệng chiếc vại chứa nước, khoát nước rửa sạch dao rồi cắn sống dao giữa hai hàm răng, xắn ống tay áo, nắm chặt chân con chó, lần tìm khớp xương rồi đưa con dao lên khoanh một vòng và chỉ cần một cú lắc tay, chân con chó đã rời ra. Vài sợi gân hãy còn chưa đứt, chỉ cần con dao khẽ động đậy là chân con chó đã nằm trên đất. Tiếp theo là một chân khác. Chỉ một lát sau, bốn chân con chó đã nằm lăn lóc. Bị cắt mất bốn chân, đuôi con chó hình như dài hơn rất nhiều. Những người chung quanh ai nấy đều ngây người trố mắt, thi thoảng có tiếng chép miệng khen Tôn Ba đúng là tay đồ tể có hạng. Gã tiếp tục nhắm ngay phía dưới mõm con chó vạch một dao thẳng xuống đến đuôi, Lai Thư vội vàng dùng một que củi đẩy những đoạn ruột trào ra ngoài dưới bụng con chó vào lại bên trong. Lại lột da, bắt đầu từ đầu lột xuống. Đôi mắt con chó lộ ra, tròn vo, đen sì trông thật đáng sợ. Hình như từ đôi mắt ấy có hai luồng khí chất chứa oán hận xâm nhập vào cơ thể từng người. Da lưng, da bụng, da chân cũng đã bị lột sạch, tấm da chó hoàn chỉnh đã được nâng lên, để lộ hai thăn thịt nung núc hai bên xương sống con chó, những đốt xương sống của nó trông chẳng khác nào một chuỗi hạt sơn tra…

Lão chạy một cách điên cuồng, lồng ngực co thắt. Trước mặt lão, mấy con gà kêu lên quang quác rồi cuống quýt nhảy lên đầu tường, có con còn bay lên cả những cành cây cao. Từ phía sau tiếng người hỗn loạn nhưng rõ nhất vẫn là tiếng quát tháo: Bắt nó lại! Chạy đến đầu làng, lão cảm thấy đỡ tức ngực hơn nhưng trong lục phủ ngũ tạng hình như có những nắm đấm liên tục giáng vào lồng ngực, vào sườn, vào bụng lão, cổ họng như có một đốm lửa và cổ như bị buộc chặt bởi một dây thừng. Thân hình lão lắc lư xiêu vẹo chạy trên con đường đất gập ghềnh, con bé bị bọc trong tấm chăn đơn kẹp dưới nách ho lên sù sụ như một lão già và dường như nó cùng tấm chăn sắp sửa rơi xuống. Lão cố gắng kéo nó lên vị trí cũ, hình như một chiếc chân nhỏ nhắn của con bé đã đạp vào bụng dưới của lão và từ trong mấy lần chăn, tiếng khóc u u của nó vọng lên.

Lý Man! Đến lúc này lão còn dám khắng định rằng, khi nghe tiếng khóc của con bé lão không hề đau lòng nhưng hai hàng nước mắt lại chảy dài trên mặt lão. Trong tiếng khóc u u của con bé, hình như có tiếng gọi mẹ chưa được rõ lắm. Chân lão dường như bị bó chặt bởi những sợi dây vô hình, không chạy được nữa. Chỉ chậm một vài nhịp chân, lão đã nghe từ phía sau những tiếng hô như sấm rền: Bắt lấy nó! Bắt lấy thằng đặc vụ! Bắt lấy thằng bắt cóc trẻ con! Những người đang đi phía trước nghe được tiếng hô từ phía sau bèn giương nông cụ lên, xốc lại. Lão vứt chiếc chậu, hai tay ôm chặt đứa con gái, luồn nhanh vào một khoảnh ruộng cao lương. Lá cao lương như những lưỡi dao sắc, cứa vào mắt, vào mũi, vào miệng lão. Như một con gấu đui, lão quờ quạng trong đám cao lương, chân lão đạp lên thân cao lương, làm chúng nằm rạp xuống, gãy cụp xuống, hạt cao lương bắn tung tóe và rơi xuống đất nghe rào rào như mưa nặng hạt, bụi phấn trắng trên cây cao lương bay lả tả. Tiếng chân, tiếng va đập, tiếng gãy đổ, tiếng thở gấp tiếng tim nhảy, tiếng hô của những người truy đuổi, tiếng đập cánh hoảng hốt của những con chim cu đang kiếm ăn trong ruộng cao lương, tiếng con gái khóc… tất cả hợp thành một mũi tên cực mạnh xuyên thấu tai lão, từ bên này xuyên thẳng qua bên kia. Vướng phải một thân cây cao lương to và cứng, lão ngã lăn đùng ra, đứa con dưới nách lão văng ra thật xa, trong khi văng nó còn thét lên một tiếng kinh hoàng. Nhưng chỉ có một tiếng duy nhất, sau đó là sự yên lặng đến rợn người. Lão chết điếng trong lòng. Hết rồi! Lão nghĩ. Tất cả đều đã chấm dứt! Con gái chết rồi! Con gái đã chết, còn chạy để làm gì? Lão quỳ xuống, đi bằng đầu gối, đầu gối lão đè lên thân cây cao lương để đi đến chỗ tấm chăn, vội vàng mở bọc chăn ra.

Trong cái nhìn mơ hồ của lão, mặt của con bé vừa đỏ hồng vừa tím tái, chẳng khác nào một quả hồng trong sương giá. Lão dụi mắt thật mạnh, làn mây mù trước mắt tan biến, như trong ảo giác, lão phát hiện hai vành môi con bé vẫn đang rung rung, trên khóe mắt có hai giọt máu hồng, hai giọt máu hồng cũng đang rung rung. Lý Man! Lý Man! Con gái của bố! Lão dùng ngón tay to bè thô ráp của mình lau hai giọt máu trên khóe mắt của con gái, đầu ngón tay có cảm giác nóng ấm. Mặt đứa con gái từ từ biến thành màu trắng, miệng cử động, mũi chun lại và bắt đầu rặn ra những tiếng khóc oe oe, chiếc mồm nhỏ mở ra hết cỡ để lộ tám chiếc răng bé xíu. Cao lương đứng chung quanh bố con lão lại xào xạc lên tiếng, lão hoảng kinh dùng bàn tay to bè áp chặt miệng con gái lại, toàn bộ khuôn mặt bé nhỏ của nó lọt thỏm trong bàn tay lão mà run rẩy. Dạ dày lão bỗng nổi cơn co giật mạnh, cuống họng như có một cái gì đó đắng chát cào cấu không tự chủ được, lão buông lỏng tay. Qua những kẽ hở của cành lá cao lương, lão đã nhìn thấy mấy cặp chân màu xanh lục, chẳng kịp suy nghĩ gì nữa, lão chụp lấy đứa bé và phóng chạy. Lão chẳng còn sức đâu để mà mở mắt nữa nên không cần phải định vị phương hướng, cứ chạy về trước, thế là được. Lão chạy loanh quanh loạng choạng, hai chân như được gắn hai chiếc lò xo.

Lão lại ngã sóng soài. Hình như có một cái gì đó rất nặng nề ngáng phải bước chân của lão. Vừa mở mắt ra đề tìm lại bảo bối của mình, lão bỗng “a!” lên một tiếng kinh hoàng, toàn thân như bị đập một đòn thật nặng, xương cốt lão mềm nhũn ra. Dưới chân lão là một cặp nam nữ lõa lồ đang nằm ôm nhau thật chặt, nam đen nữ trắng, dưới thân thể hai người là một lớp cây cao lương dày. Từ thân thể và từ mồm của họ, mùi nông dược kịch độc xông lên khiến người ta muốn nghẹt thở. Lão run rẩy đứng dậy, quay người phóng vọt đi. Chẳng khác nào con thiêu thân lao vào chỗ chết, đầu lão đâm sầm vào bụng một trong số những người truy đuổi lão. Lão nghe thấy tiếng gió rít thật mạnh trên đầu mình, tiếp theo đó là một cú gậy thật nặng giáng xuống eo lưng rồi một tấm chăn chụp xuống đầu lão. Mây trắng vẫn cứ bồng bềnh nhàn nhã, bông cao lương đỏ sậm tiếp tục đua nhau rơi xuống đất…

– Lão Lưu! Dậy đi! Nhóm lửa lên nấu thịt chó. Lão khốn kiếp này, muốn nằm đấy mà hưởng thụ không công à?

Mạc Ngôn
Nguồn: Isach.info

Phạm Thuý Quỳnh đưa bài