80 năm phong trào Thơ mới và văn học Tự lực văn đoàn

Khai sinh Tự lực văn đoàn

Phong Hoá và những ước vọng xa vời

SGTT.VN – Trong các hồi ký, ghi chép của mình, nhiều nhà văn, nhà báo lão thành nước ta đã dành những dòng cảm xúc chân thành kể về những kỷ niệm tốt đẹp khi họ làm cho tờ Phong hoá. Nhiều người thẳng thắn thừa nhận, họ đã trưởng thành từ cái “lò đào tạo” Phong hoá.

Thổi luồng gió mới

Nhà văn Nhất Linh.

Sau khi đàn áp các phong trào yêu nước do các sĩ phu phát động, thực dân Pháp chỉ được sống yên ổn mấy năm cuối cùng của thế kỷ 19. Từ đầu thế kỷ 20, các phong trào yêu nước vẫn tiếp tục bùng nổ khiến người Pháp phải tính toán lại các chính sách cai trị nhằm đánh vào ý thức dân tộc của người bản xứ. Ông G. Dumoutier, thanh tra Giáo dục Bắc kỳ từng nhận định: Muốn thay đổi hình dáng, màu sắc của một cái cây, không thể bắt đầu với cái cây đã phát triển hoàn toàn, mà phải tác động từ hạt giống. Muốn biến đổi một dân tộc cũng phải làm như vậy. Nếu chúng ta muốn đặt được vĩnh viễn ảnh hưởng của nước Pháp trên phần đất này của thế giới thì phải làm cho họ tiêm nhiễm tư tưởng của chúng ta, dạy cho họ tiếng nói của chúng ta và phải bắt đầu từ nhà trường và chú ý trước tiên đến trẻ em….

Hơn ai hết người Pháp hiểu rằng, muốn thu phục được tinh thần người Việt, không gì tốt hơn phương tiện báo chí. Đây là cơ sở để những tờ như Đông dương tạp chí (1913), Nam phong tạp chí (1918) ra đời. Những tờ báo của chính quyền này tuyên truyền mạnh mẽ chính sách cai trị của thực dân Pháp, phê phán các phong trào yêu nước, tẩy chay lối học cũ, đề cao văn hoá, khoa học phương tây… Mục tiêu chính của các tờ báo trên một mặt nhằm hạn chế tầm ảnh hưởng của truyền thống, mặt khác thúc đẩy sâu rộng phong trào học và sử dụng chữ quốc ngữ trong dân chúng. Đây chính là tiền đề gây dựng nên đội ngũ văn nhân ký giả theo tây học sau này. Từ đầu thế kỷ 20, nhất là sau khi kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918), ở Việt Nam bắt đầu rộ lên các phong trào sáng tác văn chương theo lối mới (chủ yếu theo lề lối của Pháp). Báo chí là phương tiện truyền tải văn chương chủ yếu của thời kỳ này. Đây cũng chính là môi trường làm bùng nổ các phong trào sáng tác đình đám vào những năm 30 của thế kỷ trước. Trong số những tờ báo chuyên về văn chương thời đó, có lẽ để lại dấu ấn đậm nhất là các tờ Phong Hoá, Ngày Nay của nhóm Tự lực văn đoàn. Có thể nói, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) là linh hồn của cả hai tờ Phong Hoá, Ngày Nay cũng như nhóm Tự lực văn đoàn.

Nguyễn Tường Tam (1905 – 1963) sinh ra trong một gia đình trí thức có bảy anh em ở huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Bố mất sớm nên mẹ ông phải rất vất vả, tần tảo buôn bán ngược xuôi, nuôi các con ăn học. Ngay khi mới 16 tuổi ông đã có thơ đăng trên báo Trung Bắc tân văn, đăng nhiều bài có tính khảo cứu trên Nam Phong tạp chí. Sau khi tốt nghiệp trung học ông thi đậu vào trường Mỹ thuật Đông Dương nhưng chỉ theo học một năm rồi bỏ. Năm 1926, ông vào Nam làm báo. Do có vai trò khá nổi bật trong phong trào để tang Phan Chu Trinh, ông bị người Pháp truy bắt ráo riết, buộc phải trốn sang Campuchia. Năm 1927, ông tìm cách sang Pháp học và năm 1930, Nguyễn Tường Tam lấy được bằng cử nhân.

Ảnh: tư liệu

Đầu những năm 1930, ở Việt Nam xảy ra nhiều sự kiện lớn, có tính bước ngoặt của lịch sử như cuộc khởi nghĩa Yên Bái, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930), Phong trào Xô – Viết Nghệ – Tĩnh (1930 – 1931)… Thực dân Pháp đã đàn áp hết sức dã man các phong trào này. Hàng loạt nhà yêu nước rơi vào cảnh tù đày. Cả xứ Đông Dương như sống trong đêm dài trung cổ. Mọi hình thức đấu tranh vũ trang hầu như bị triệt tiêu. Đúng vào thời kỳ này, Nguyễn Tường Tam về nước. Khi còn ở bên Pháp, Nguyễn Tường Tam rất ấn tượng với tờ Con Ong, tờ báo trào phúng, châm chích những hiện tượng tiêu cực trong xã hội và ông đã nảy ý định ra một tờ báo tương tự làm phương tiện đấu tranh.Tuy nhiên, việc xin phép ra báo Tiếng Cười của ông không thành bởi chính quyền thực dân luôn tìm cách trì hoãn việc cấp phép, mặt khác, việc ra tờ báo mới rất tốn kém, Nguyễn Tường Tam khó mà lo nổi được ngay một khoản tiền lớn. Đây cũng là lúc tờ Phong Hoá của mấy đồng nghiệp dạy trường Thăng Long rơi vào cảnh bết bát có nguy cơ phải đóng cửa. Nguyễn Tường Tam đã gặp Phạm Hữu Ninh, Trần Khánh Dzư, Nguyễn Xuân Mai để điều đình mua lại tờ báo. Sau khi có tờ báo trong tay Nguyễn Tường Tam làm chủ bút, vẫn giữ Phạm Hữu Ninh làm quản lý, Nguyễn Xuân Mai làm giám đốc chính trị. Từ lúc này, Phong Hoá chuyển hướng thành một tờ báo chuyên về văn hoá, nghệ thuật, mang đậm tính trào lộng với ba hình tượng nghệ thuật điển hình Xã Xệ, Lý Toét, Bang Bạnh.

Phong Hoá số 14 ( 22.9.1932, số đầu tiên do Nguyễn Tường Tam làm chủ bút) ghi rõ tôn chỉ, mục đích: – Hăng hái theo con đường mới, tìm lý tưởng mới; – Không chịu khuất phục thành kiến; – Không làm nô lệ ai, không xu phụng một quyền thế nào; – Lấy lương tri mà xét đoán, theo lẽ phải mà hành động; – Lấy thành thực làm căn bản; – Lấy trào phúng làm phương pháp, tiếng cười làm vũ khí. Để Phong Hoá sớm có chỗ đứng trong làng báo Việt, ngay khi vừa nắm tờ báo trong tay, Nguyễn Tường Tam đã rất chú trọng đến việc chiêu hiền đãi sĩ. Ngoài mấy anh em trong nhà là Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo), Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam), Nguyễn Tường Bách, ông mời nhiều cây bút nổi tiếng, đang ăn khách thời bấy giờ về làm cho Phong Hóa như Trần Khánh Dzư (Khái Hưng), Hồ Trọng Hiếu (Tú Mỡ), sau có thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu (em Trần Khánh Dzư), Thế Lữ. Nhiều người có bài cộng tác chặt chẽ, thường xuyên với Phong Hoá như Trọng Lang, Huy Cận, Thanh Tịnh, Đoàn Phú Tứ…

Phần 2:

Trong phần đầu của bài viết Phong Hoá và những ước vọng xa vời, TS Hoàng Văn Quang, đã cho rằng ngay từ những số đầu tiên, Phong Hoá đã thổi một luồng gió mới đầy sinh khí vào lòng bạn đọc, được đông đảo nhân dân, đặc biệt là tầng lớp tiểu tư sản, trí thức thành thị khắp ba kỳ hoan nghênh, ủng hộ. Phong Hoá liên tục phải tăng lượng in. Báo thường in 5.000 bản nhưng có những số phải in tới một vạn bản (kỷ lục lúc bấy giờ) mà vẫn bán hết veo. Tuy nhiên…

Nhà văn Nhất Linh (bên phải) và nhà thơ Đông Hồ tại Sài Gòn năm 1960. Ảnh: tư liệu

Sự ảo tưởng khổng lồ

Bạn đọc thích Phong Hoá bởi, như trên đã nói, thời gian này các phong trào đấu tranh cách mạng bị đàn áp nặng nề nên việc đấu tranh vũ trang hầu như vắng bóng. Tập trung phê phán những thói hư tật xấu, những tập tục lạc hậu, cổ hủ, hô hào Âu hoá, thúc đẩy phát triển văn học nghệ thuật theo lối mới của Phong Hoá cũng ít nhiều đáp ứng được kỳ vọng của nhân dân. Cũng chính sự ủng hộ của bạn đọc là động lực thúc đẩy anh em tích cực khai phá các nội dung mới, tìm tòi những phương thức thể hiện sao cho hấp dẫn, dễ hiểu nhằm nâng cao dân trí


Không khí làm báo Phong Hoá đã được Tú Mỡ kể lại: “Mỗi tuần lễ, tôi đến họp mặt với các anh từ tối thứ bảy bàn soạn về việc viết lách cho báo, cặm cụi viết vẽ suốt cả ngày chủ nhật; mệt nhọc thì ra sân đá cầu, đánh bóng bàn để giải trí. Thế là bước đầu chúng tôi có một “trại sáng tác” tuy còn nhỏ… Các anh có một sức làm việc ghê gớm, đáng phục, làm ngày làm đêm, tốn khá nhiều càphê, thuốc lá, làm việc đến rạc cả người, hom hem, xanh xám như Khái Hưng, ai không biết cứ tưởng là “dân làng bẹp”.

Tuy có lượng phát hành lớn, đời sống anh em vẫn chưa được cải thiện do bị nhà in và các đầu nậu giấy ép giá. Trước thực tế đó, Nguyễn Tường Tam cùng mọi người trong toà soạn bàn bạc quyết định lập Tự lực văn đoàn để chủ động trong các khâu in ấn, đồng thời biến đây thành nơi tập hợp tầng lớp văn nhân ký giả. Để mở rộng sản xuất, mua sắm thiết bị hiện đại, Tự lực văn đoàn hoạt động theo hình thức đóng góp cổ phần. Với mỗi cổ đông 500 đồng, Tự lực văn đoàn nhanh chóng có đủ tiền gây dựng nhà xuất bản Đời Nay. Có lẽ do ảnh hưởng của chủ nghĩa Ánh sáng, chủ nghĩa Cộng sản không tưởng phương Tây, những người trong Tự lực văn đoàn đã vẽ ra nhiều kế hoạch “to tát” nhằm nhanh chóng thay đổi đời sống nhân dân như xin đất rồi tập trung lại khai khẩn, lập những trang trại kiểu mẫu, trong đó có nhà hợp vệ sinh, có đèn điện, trường học, bệnh viện, nhà trẻ, câu lạc bộ… cho tá điền sử dụng với hy vọng mô hình đồn điền kiểu này dần sẽ được nhân rộng ra toàn cõi Đông Dương… Rõ ràng, ý tưởng trên đây là có thiện ý tốt nhưng thiếu thực tế, viển vông, nên sớm bị phá sản. Vô tình, những dự án kiểu như thế này lại rất phù hợp với chính sách mị dân của chính quyền thực dân, nên được người Pháp ủng hộ. Dường như, những người sáng lập ra Tự lực văn đoàn không hiểu rằng cái người dân Việt Nam cần lúc này không phải là miếng cơm manh áo mà là độc lập tự do.

Có thể nói, tư tưởng của Tự lực văn đoàn có nhiều mặt tiến bộ, nhưng đôi khi ảo tưởng, thiếu thực tế, viển vông. Nói cách khác, họ hầu như không nắm được bản chất xã hội đương thời.

Nội dung chính của Phong Hoá là phê phán các thói tật xã hội. Do được bạn đọc ủng hộ cổ vũ nên báo ngày càng lấn sâu vào các địa hạt chính trị, châm biếm tầng lớp quý tộc, phê phán các chính sách cai trị… Nhà cầm quyền thực dân đã nhiều lần bắn tiếng đe doạ đóng cửa Phong Hoá. Điều này không làm cho Phong Hoá nhụt chí. Báo vẫn đều đặn mang tiếng cười sảng khoái đến cho dân chúng, nhưng lại là mũi dùi đâm vào ruột gan tầng lớp thống trị. Phong Hoá chủ yếu bộc lộ một số quan điểm: phê phán sự lạc hậu, mê tín của các tôn giáo truyền thống như đạo Phật, đạo Lão, đạo Khổng, ca ngợi khoa học, triết học phương Tây. Báo nhiều lần chê bai các tập tục, lễ nghi phong kiến đang đè nặng lên người dân thôn quê, đồng thời đề cao sự bình đẳng trong gia đình, coi trọng quyền công dân tại các thôn xóm…

Giải thưởng văn chương Tự lực văn đoàn. Ảnh: tư liệu

Tư tưởng tiến bộ nhưng còn ảo tưởng, viển vông

Có thể nói, tư tưởng của Tự lực văn đoàn có nhiều mặt tiến bộ, nhưng đôi khi ảo tưởng, thiếu thực tế, viển vông. Dường như họ chỉ phản ánh tốt đời sống của giới trí thức theo tây học, tiểu tư sản thành thị. Đối với các tầng lớp khác, hoặc là họ bỏ qua, hoặc mô tả một cách phiến diện. Nói cách khác, họ hầu như không nắm được bản chất xã hội đương thời. Chính vì vậy mà trong các bài viết của mình họ thường rất lúng túng khi tìm lối thoát cho các nhân vật, không xây dựng được các khuôn mẫu điển hình cho người Việt Nam. Các tác phẩm đăng trên Phong Hoá tuy được đánh giá cao trên phương diện nghệ thuật, nhưng xét về mặt xã hội lại không đạt được nhiều ý nghĩa. Với giọng văn hài hước, châm biếm Phong Hoá không chỉ phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội, báo còn đả kích khá mạnh mẽ thói tham lam, độc ác của tầng lớp thống trị. Các đối tượng nha lại, chức dịch vùng thôn quê, công chức nơi thành thị bị Phong Hoá đưa lên mặt báo nhiều nhất. Thỉnh thoảng báo cũng đề cập đến những nhân vật chóp bu trong xã hội nhưng tránh nói đến người Pháp cũng như các chính sách của chính quyền thực dân.

Phong Hoá số 121 ra ngày 26.11.1934 có mục Từ ông nghị này đến ông nghị khác đã bóc trần bộ mặt thật của những kẻ giá áo túi cơm, tiếng là đại diện cho nhân dân, nhưng lúc nào cũng chăm chăm làm thế nào để túi mình ngày càng đầy thêm. Có những bài thì châm biếm sâu xa, kín đáo, có bài thì chửi thẳng vào mặt. Việc châm biếm đả kích tầng lớp quan lại người Việt tuy thoả mãn được tâm tư, tình cảm người dân, nhưng nó cũng cho thấy Phong Hoá chưa xác định được kẻ thù của dân tộc ta là chủ nghĩa đế quốc, thực dân, là triều đình phong kiến thối nát. Nhiều khi báo còn gián tiếp ca tụng người Pháp thông qua những bài viết ca ngợi văn minh, lối sống, khoa học phương Tây, coi rẻ thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không những thế, đôi khi báo còn đưa người dân nghèo, ít học ra làm trò cười, coi họ như là lực cản của tiến bộ, là những người ăn bám, thậm chí là tác nhân kéo lùi bước tiến của xã hội, của lịch sử. Phong Hoá số ra ngày 4.8.1933 đăng bài Các trình độ học thức của Nhị Lang (Trần Khánh Dzư) đã đánh giá: Sự sống eo hẹp, khó khăn của dân quê ta phần lớn nguyên nhân là ở chỗ vô học trong đó có loại vô học cùng dân: lúc nhúc như đàn cừu đói rét, chẳng ai đoái thương. Như vậy là, theo Phong Hoá, nguyên nhân của mọi sự cùng khổ bất công trong xã hội là do sự vô học của tầng lớp dân nghèo, chứ không phải xuất phát từ sự cai trị hà khắc của chính quyền thực dân, của chế độ phong kiến đớn hèn, mục ruỗng. Tầm nhìn hạn hẹp và sai lầm này còn xuất hiện ở nhiều tờ báo đương thời. Điều đó cho thấy, có thể, do sự áp chế của nhà cầm quyền mà báo chí thời đó phải nói tránh đi như vậy.

TS HOÀNG VĂN QUANG