Inrasara, tác giả tiểu luận “Mười căn bệnh phê bình văn học hôm nay” cho rằng, phê bình văn học đang có hội chứng rên rỉ và đổ thừa. Bên cạnh đó là những nhận định mơ hồ dẫn đến việc báo động giả, báo động ăn theo.

Thời gian qua, giới viết lách đã bắt mạch để chỉ ra căn bệnh của phê bình văn học. Phải chăng phê bình của ta đang có nhiều vấn đề bức xúc thưa ông?

– Quá nhiều nữa là khác. Tôi quan sát, lượm nhặt chúng và phân tích trong tiểu luận “Gọi tên mười căn bệnh phê bình văn học hôm nay”. Đó là Phê bình bình và tán, Phê bình độn giai thoại, Phê bình chung chung, Phê bình hũ nút, Phê bình núp bóng, Phê bình bè phái, Phê bình du kích, Phê bình quan phương, Phê bình hàng hai, Phê bình liếc nhìn. Sinh hoạt phê bình mấy chục năm qua đầy tràn các căn bệnh như thế với nhiều biến thái và biến tướng. Các sản phẩm từ bệnh viện kia cuối cùng được tập hợp trong tập sách vài trăm trang, rồi tự tin kêu đó là “tập lý luận – phê bình”: Cảm nhận, Cảm luận, Tản mạn… gì gì đó. Đọc suốt tác phẩm, độc giả không thấy đâu là tư tưởng nền tảng của nhà phê bình, mà chỉ nghe bao nhiêu giai thoại vui vui, trích đoạn tùy tiện, nhận định vô bằng, cùng những ý kiến nói theo từng xuất hiện nhan nhản trên đủ loại báo phổ thông.

Trước đây là thế, từ đó đến nay ông có phát hiện thêm “căn bệnh” nào khác?

– Về phê bình tác phẩm, quanh quẩn bấy nhiêu thôi, ta nhai lại năm này sang năm khác, vẫn không hết chán. Riêng phê bình đối với phê bình lý luận, ở ta nảy nòi thêm căn bệnh mới, mà tôi tạm đặt cho cái tên “hội chứng rên rỉ và đổ thừa”, rên rỉ và đổ thừa sai mục tiêu. Kế đến là “hội chứng báo động giả”, báo động ăn theo đầy tính cơ hội.

– Ông đã viết hẳn một bài dài 2 kỳ cho một tạp chí văn chương để bắt mạch lại… những bài bắt mạch phê bình của một số tác giả trong làng văn thời gian qua?

– 2 bài “Phê bình văn học Việt Nam, hội chứng rên rỉ và đổ thừa” và “Phê bình: nạn báo động giả”, là sơ kết bước đầu về bao nhiêu nhận định về nền phê bình hôm nay – phê bình phê bình. Nếu phê bình tác phẩm, người viết chỉ cần sở hữu ít khiếu thẩm mỹ, thêm cách diễn đạt có duyên, là đủ để người đọc dừng lại với bài phê bình, ít ra, không dị ứng với nó; thì phê bình phê bình đòi hỏi rất cao đến thao tác đầy lý tính của người viết. Đằng này, ta muôn năm rên rỉ mơ hồ. Vì mơ hồ nên ta hay làm to chuyện về vài khía cạnh vụn vặt của vấn đề, và ta kêu là phê bình đang khủng hoảng, phê bình đang trong tình trạng đáng báo động.

– Như vậy, theo ông, nền phê bình của ta không đáng báo động?

– Đáng báo động là ở chỗ khác, chứ không ở mấy vụ ta đang than thở rên rỉ. Tôi nói rên rỉ sai mục tiêu là thế. Ta than thở phê bình xuống cấp, tụt hậu, ta cấp tập mở cuộc hội thảo, mở các lớp bồi dưỡng phê bình cấp Hội, cấp Trung ương và hơn nữa, để nâng cao chất lượng phê bình. Nhưng hãy ngó xem, ta bàn về cái gì nào? Quanh đi quẩn lại vẫn là “Văn học với đời sống hiện thực đất nước”, “Văn học và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, “Để nâng cao chất lượng phê bình”, “Về tính dân tộc và hiện đại trong văn học nghệ thuật hiện nay”, “Văn học và vấn đề chuyên nghiệp hóa văn học”… Năm sau hay vài năm sau thôi, ta lặp lại. Tại sao không là cái đang xảy ra: Văn chương mạng, Văn học hậu hiện đại Việt Nam… với mênh mông cái mới, tại sao không?

Nhà phê bình Inrasara.

Ông có nói đến “hội chứng rên rỉ và đổ thừa” cùng với những tiếng còi “báo động giả”, liệu ông có nhận định hơi quá?

– Chẳng quá tí nào cả đâu.

Không ít người từng gióng chuông báo động giả, trong khi chính bản thân ta rất đáng bị báo động! Ta không hiểu gì về hậu hiện đại, mà cứ phát biểu bừa về trào lưu văn hóa này, về các sáng tác thuộc hệ mỹ học này, không là đáng báo động thì còn kêu bằng nỗi gì? Ta kêu “thiếu chuẩn”, “loạn chuẩn”… Thế mà khi ta bị vặn ngược lại, vậy đâu là “chuẩn”? Nó được đặt trên nền tảng mỹ học nào? Thì ta lúng ta lúng túng không biết đặt tay vào đâu. Nghĩa là, chính kẻ phát ngôn đầy hào hứng kia đang tiếp tục chương trình cảm tính với chung chung, để đóng góp phần mình vào nỗi “loạn chuẩn” kia, mà không tự biết!

Nữa, khi ta đánh đồng các bài điểm sách, các bài PR tác phẩm vừa xuất bản với bài phê bình, rồi ta kêu rằng phê bình xuống cấp gì gì đó. Ta cho chính thủ phạm kia đang giết chết phê bình chân chính. Ta kêu, và ta bắt chước nhau kêu, mà không nhận biết rằng đó là hai hoạt động chữ nghĩa hoàn toàn khác nhau. Riết rồi tiếng kêu đó lây lan để trở thành một thứ hội chứng rên rỉ và đổ thừa khó chữa trị.

Trong khi nhiều người lên tiếng kêu than về tình trạng “người người làm phê bình, nhà nhà làm phê bình” thì ông lại tỏ ra lạc quan, coi đó là cơ hội cho nền văn học phát triển, trong khi ông luôn đề cao tính chuyên nghiệp của người làm phê bình, như vậy liệu có mâu thuẫn?

– Ở đây nữa, thêm sự đổ thừa rất trật… mục tiêu. Ta đổ thừa phê bình xuống cấp do “người người làm phê bình, nhà nhà làm phê bình”, “ai cũng có thể phán kiểu mình được”. Tôi thấy rất lạ!

Cớ sao “người người làm phê bình, nhà nhà làm phê bình” không phải là cơ hội lớn cho nền văn học phát triển, mà lại làm trở ngại? Nữa, nếu ở đó, ta không phải đồng thanh một kiểu phê bình, mà hãy “kiểu ai nấy nói”, tại sao nỗi đó không phải là cơ may cho nền phê bình, mà lại kéo nó tụt hậu? Nhiều người làm phê bình với nhiều “kiểu” phê bình khác nhau, nhiều cách “phán” khác nhau là điều cần thiết cho đa dạng hóa một nền văn học, cớ sao lại đi than vãn nó.

Nó chỉ đáng than vãn, khi các “kiểu” phê bình ấy không được đặt trên nền tảng lý luận nào, mà chỉ là những phát biểu tùy hứng đến tùy tiện. Ở Việt Nam, phê bình kiểu này thừa mứa ra.

Như vậy có nghĩa là những người làm phê bình văn học ở ta đang thiếu một nền tảng tư tưởng của người làm phê bình?

– Đúng. Cần một nền tảng cho phê bình, cần những nền tảng khác nhau cho mỗi cách phê bình khác nhau.

Ông từng phân nhà phê bình ra làm 3 loại: nhà phê bình đại diện cho thị hiếu chung của xã hội, nhà phê bình phát hiện cái mới khác trong sáng tác đương thời, và nhà phê bình lý thuyết mở hướng đi mới cho khai phá sáng tạo. Vậy ông thấy mình thuộc loại nào trong ba loại trên?

– Phê bình lý thuyết mở ra hướng đi mới cho sáng tạo thì tôi không dám, bởi nó vượt quá khả năng tôi; mặc dù cá nhân tôi thường bị gán vào cái mác “nhà phê bình hậu hiện đại”; và phê bình phát hiện cái mới khác trong sáng tác đương thời, hậu hiện đại ở trong dòng chảy đó. Tôi nằm ở đường biên hai loại phê bình đó.

Ông có nghĩ một người làm phê bình giỏi thì đương nhiên người ấy sáng tác sẽ… hay hơn?

– Không hẳn! Điều chắc chắn là họ sẽ không bao giờ viết nổi bài thơ tệ. Nghĩa là ý thức chuyên nghiệp của họ rất cao.

Tiểu thuyết “Hàng mã ký ức” của ông ra đời nhưng hình như chưa có nhà phê bình nào đụng đến, phải chăng dân phê bình ngại vì tác giả của nó cũng làm phê bình?

– Đây là câu hỏi tế nhị, tế nhị nhưng… đúng. Sau Lễ Tẩy trần tháng Tư, tôi dấn vào “phê bình”. Sau thời điểm đó, tôi in 4 tác phẩm văn chương nữa, nhưng chúng nhận được rất ít bài phê bình từ các nhà phê bình có nghề. Hàng mã ký ức ra mắt khá xôm tụ ở Sài Gòn, và nhận được hơn 20 cảm nhận khác nhau từ phía người đọc, nhưng vẫn chưa thấy một nhà phê bình nào động bút đến nó.

Website cá nhân của ông có khẩu hiệu “Không ai có thể hát thay chúng ta”, ông có thể nói một chút về “slogan” này?

– Đây là câu đầu tiên trong một bài thơ tiếng Chăm của tôi, tôi có dịch ra tiếng Việt in trong Lễ Tẩy trần tháng Tư. Bài thơ được gợi hứng từ câu tục ngữ Chăm mẹ tôi thường nói: Oh hu Ywơn Xanưng halei đik asaih mai patauw drei (Không có người Kinh [làng] Từ Tâm nào cưỡi ngựa đến dạy ta). Câu này biến thái qua các cuộc nhậu giữa anh em Chăm thành: Không có ai uống thay chúng ta, hay thông dụng hơn, ở khắp Trung Nam Bắc: Hồn ai nấy giữ.

Đặc san Tagalau, Sáng tác – sưu tầm – nghiên cứu văn hóa Chăm ra được 2 kỳ. Cả hai đều do nhà thơ Nông Quốc Chấn “chịu trách nhiệm bản thảo”. Sau số hai, vì một sự cố, đặc san không được duyệt in, Hội Văn học nghệ thuật dân tộc thiểu số Việt Nam cũng không đứng tên xuất bản nữa. Thế là “Không ai có thể hát thay chúng ta”, tôi phải đứng mũi chịu sào chủ biên. Bài thơ in ngay trang đầu tiên làm đề từ cho Tagalau 3. Từ đó Tagalau dù bao gian truân, đã đi suốt hành trình 12 năm!

Inrasara tên thật là Phú Trạm, sinh 1957 tại làng Chăm Caklaing, tỉnh Ninh Thuận. Hiện sống tại TP HCM. Các tác phẩm đáng chú ý: Tháp nắng (thơ, 1996) Lễ Tẩy trần tháng Tư (thơ, 2002); Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức (thơ, 2006); Chân dung Cát (tiểu thuyết, 2006); Hàng mã ký ức (tiểu thuyết, 2011); Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo (tiểu luận văn chương, 2006), Song thoại với cái mới (tiểu luận văn chương, 2008)… Ngoài ra ông còn xuất bản hơn 10 công trình nghiên cứu về văn hóa Chăm. Ông đã đầu tư xây dựng một Nhà trưng bày Văn hóa Chăm Inrahani tại quê ông, và chủ biên đặc san Tagalau, Sáng tác – sưu tầm – nghiên cứu Chăm. Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1997 & 2003), Giải thưởng Văn học ASEAN (2005), Giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh (2009). Hiện Inrasara là Phó Chủ tịch Hội đồng thơ, Hội Nhà văn Việt Nam.

Dương Tử Thành thực hiện

Nguồn: eVan.