V.C – Bùi Việt Thắng – Hoài Nam
V.C –  Ngày 10/9, Ban chấp hành Hội Nhà văn Hà Nội đã tổ chức tọa đàm về cuốn tiểu thuyết “Mưa trong nắng” của nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hà (đoạt Giải C “Cuộc thi viết tiểu thuyết, truyện và ký về đề tài Vì anh ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống” 2012-2015, do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức); Và tập truyện ngắn “Kỳ nhân làng ngọc” của nhà văn Trần Thanh Cảnh đoạt giải thưởng Hội Nhà văn VN năm 2015.

Toàn cảnh buổi tọa đàm tại Hội Nhà văn Hà Nội

Đây là hai nhà văn đang khá sung sức của Hội Nhà văn HN. Tham dự tọa đàm có 2 Phó Chủ tịch Hội nhà văn HN: Nguyễn Việt Chiến, Trần Quang Quý và 2 ủy viên Ban chấp hành: Y Ban (chủ tịch Hội đồng văn xuôi), Trần Gia Thái (Phó Ban sáng tác) cùng nhiều nhà văn, nhà thơ. Đã có các tham luận và ý kiến của các nhà văn, nhà phê bình: Bùi Việt Thắng, Lê Thành Nghị, Uông Triều, Văn Giá, Y Ban, Nguyễn Bích Thu… về 2 tác phẩm trên

Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hà cho biết, chị đến với văn chương từ khá sớm, chỉ công bố không sớm thôi. Chị sáng tác văn xuôi trước khi sáng tác thơ, nhưng công bố thơ với bạn đọc trước khi công bố văn xuôi. Đến nay, Nguyễn Thị Ngọc Hà đã in những tập thơ: Gửi Con Lời Ru; Đi Ngang Chiều Gió; Cỏ Mặt Trời; Người Gánh Vô Hình; Đứt dải yếm,Ngả vào giữa nguyên khôi.

Là một nhà thơ trữ tình đa cảm nhưng Nguyễn Thị Ngọc Hà lại là một cây bút văn xuôi khá sắc xảo.Tác phẩm đầu tay của chị là tập truyện ngắn Đầm Ma (được dịch và xuất bản tại Mỹ); Tập truyện ngắn Ám ảnh- NXB Dân Trí; tập tản văn Lạc trong đêm Liêu Trai-NXB Quân đội; và Tiểu thuyết Mưa trong nắng ( NXBCông an nhân dân). Đáng chú ý, trao đổi về văn học đương đại, Nguyễn Thị Ngọc Hà có nhận xét khá thú vị: “Văn chương nói chung và thơ nói riêng không nên phân biệt cái gọi là văn học nữ quyền. Bởi vì phân chia như thế là cực đoan. Thực tế cũng có nhiều cây bút nam viết về thân phận người phụ nữ rất hay. Tôi cũng biết là có một số nhà lý luận phê bình văn học không đồng tình khi phân chia văn học nữ quyền”.

Về nhà văn Trần Thanh Cảnh, trước khi được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2015 với tập truyện ngắn “Kỳ nhân làng Ngọc”, anh là một cái tên khá mới mẻ. Với việc đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam khi chưa là hội viên, anh đã trở thành một hiện tượng.

Nhà văn Trần Thanh Cảnh xuất thân là dược sĩ, là chủ một doanh nghiệp nên anh cho biết viết văn như một sự giải tỏa. Anh cho biết tự cảm thấy mình rất lạ, thậm chí có thể nói là… “đa nhân cách”. Khi làm kinh doanh, anh là người khá lạnh, có đầu óc tính toán cẩn trọng, nhưng khi đến với văn chương anh như một người sống một cuộc đời hoàn toàn khác.Và cảm thấy, với văn chương anh chính xác là một người rất đa sầu đa cảm. Đặc biệt, Trần Thanh Cảnh chia sẻ, khi viết truyện ngắn “Hội làng” là một truyện ngắn mà anh tâm dắc, có trường đoạn khiến anh rơi nước mắt theo nhân vật. Nhưng anh cho rằng, một nhà văn mà không đa sầu đa cảm, không có trái tim mẫn cảm thì viết ra một tác phẩm cũng khó mà chạm được đến trái tim người đọc.

Chúng tôi xin giới thiệu 2 tham luận của các nhà phê bình: Bùi Việt Thắng và Hoài Nam về 2 cuốn sách nói trên.

 

Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hà

NHỮNG BÍ MẬT CUỘC ĐỜI…

(Đọc“Mưa trong nắng”, tiểu thuyết của Nguyễn Thị Ngọc Hà, đoạt Giải C Cuộc thi viết tiểu thuyết, truyện và ký về đề tài “Vì anh ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống”, 2012-2015, do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức, Nxb. Công an nhân dân, 2016)

Bùi Việt Thắng

Nhân vật chính của tiểu thuyết là Hiếu, sỹ quan Cảnh sát khu vực một địa bàn mới chuyển từ làng lên phố. Có lẽ rất lâu rồi, theo chỗ tôi biết, mới có một tác phẩm tiếp cận thành công trực tiếp hình ảnh người chiến sỹ CAND làm nhiệm vụ gần dân nhất, công việc “không tên” nhiều nhất, nếu có thành tích thì cũng không mấy khi nổi trội so với lực lượng cảnh sát hình sự, chống tội phạm ma túy, đánh án kinh tế, bảo vệ anh ninh quốc gia,…Thử hình dung về CSKV, ở một xã vừa lên phường chẳng hạn. Cứ cho là trong địa bàn có mấy nghìn dân thì, với lực lượng có hạn định, một CSKV sẽ làm được gì nếu không dựa vào dân. Ai cũng biết, xông vào một đề tài như người ta nói có thể “trắng tay” và “thất bát” dẫu rất nhiều công sức đầu tư viết. Dễ bị công thức, thậm chí nhạt, nếu nhà văn không hướng ngòi bút của mình vào những số phận, cảnh ngộ, tâm trạng, tình huống điển hình của đời sống. Sỹ quan CSKV Hiếu qua cách thể hiện của nhà văn có một số phận không bình thường. Bắt đầu sự hấp dẫn của câu chuyện từ đây. Lâu nay người ta cứ sợ bóng sợ gió khi nhà văn nào dám khoác cho nhân vật người Công an nhân dân một xuất xứ không bình thường.  Hiếu là con đẻ của ông Thuận, một người lính ra trận tuyến đánh Mỹ từ lúc tóc còn xanh. Mẹ anh, bà Nhã , là người yêu của ông Thuận ngày trước. Họ có Hiếu khi chưa có hôn thú. Vả lại chiến tranh ác liệt đã chia cắt họ. Thêm nữa, vào thời đó, nếu hai người mà chưa cưới hỏi thì Hiếu được sinh ra trên đời là bất hợp pháp. Và nhiều cái bất …khác nữa. Bà Nhã rơi vào thế “gà mắc tóc”, “tình ngay lý gian”. Trong tình huống đó thì ông Lũy đứng ra nhận vai trò là bố đẻ của Hiếu. Có đám cưới, có giấy tờ hôn thú. Có trầu cau. Có sự chứng giám của quan viên hai họ. Họ buộc phải rời làng quê lên tận miền ngược để sinh sống, cũng là cách chạy trốn dư luận. Bí mật này càng được chôn sâu cất kỹ sau khi bà Nhã qua đời. Và cái bí mật cuộc đời ấy phải vài chục năm sau mới hé lộ. Một tình huống đầy kịch tính, khi Hiếu bị bọn xấu tấn công và bị trọng thương. Anh cần tiếp máu. Lúc này chỉ có máu của ông Thuận mới phù hợp. Ông Lũy đã vén bức màn bí mật về mối quan hệ giữa ba người: Cha nuôi (ông Lũy) – Hiếu – cha đẻ (ông Thuận). Một cốt truyện như thế phải nói ngay là “bắt mắt”. Nhưng dĩ nhiên nhà văn không lạm dụng tuyến cốt truyện này. Nó được dùng làm “nền” cho câu chuyện Hiếu đã sống và làm việc trong vai trò một CSKV ởphường Ân Thịnh như thế nào. Anh đã xây dựng “trận tuyến lòng dân” bằng cách nào? Dựa vào người tốt chiếm đa số thì đã đành. Nhưng trong dân cư một địa phương từ làng lên phố thì vẫn còn sờ sờ ra nhiều thành phần nếu không bất hảo, cứng đầu cứng cổ (với chính quyền) thì cũng không ít người lừng chừng. Vẫn còn không ít người “ngày ta đêm địch” như Nghễnh, như Lượng. Vẫn còn những người dựa vào chức quyền để dung túng cho điều sai lẽ trái, như bà Miện (chủ tịch phường). Trong tình hình ấy Hiếu phải rất ứng biến. Môt nhân vật khác rất đáng yêu, theo tôi, chính là ông Thuận. Sau chiến tranh trở về bị thương nặng, mất khả năng làm đàn ông. Bố mẹ đều khuất. Lại ôm ấp trọn vẹn mối tình đầu với bà Nhã nên sống độc thân.  Còn một “người điên” (nhân vật tiểu thuyết tiềm năng khác vừa “ảo” vừa “thực”) là “nỗi sợ truyền kiếp” của ông Vương (người đã bỏ rơi đồng đội trong chiến đấu vì ham sống sợ chết). Ông Thuận cũng có thể coi là một nhân vật tiểu thuyết tiềm năng (nếu sau này lưng vốn và cảm hứng vẫn còn dồi dào thì, theo tôi, nhà văn có thể tách nhân vật này ra thành một câu chuyện hấp dẫn khác về thời hậu chiến). Trung tâm tiểu thuyết, dĩ nhiên là sỹ quan CSKV Hiếu. Anh như cục nam châm hút vào mình nhiều nhân vật khác. Đi cùng với anh qua nhiều biến cố là Chi, cô gái đẹp người tốt nết. Họ có một tình yêu trong veo chất lý tưởng dù sống giữa thời bão tố thị trường và thực dụng. Họ tận hiến nhưng chưa nhiều tận hưởng. Phần sau thuộc về tương lai, tùy thuộc vào sự đoán định của độc giả.

Về kỹ thuật tiểu thuyết, nổi lên hai vấn đề đáng quan tâm và bàn luận khi đọc “Mưa trong nắng”. Trước hết, đây là một cuốn sách dễ đọc vì nó…ngắn (chỉ có 213 trang). Viết ngắn nên phải cố gắng dùng “phép tỉnh lược” (rút gọn, kết cấu theo nguyên tắc tối đa hiệu quả). Có thể nhà văn đã xử lý cách viết theo hướng này dù cho là có ý thức hay không có ý thức. Viết ngắn nên phải chú ý đến “nhịp điệu” của câu chuyện được kể (có 23 phần nhỏ, tôi gọi là “khúc” thì đúng hơn là “chương”). Nhịp điệu của câu chuyện được kể ở đây là “nhịp nước đại” (dồn dập sự kiện, thời gian tuyến tính liên tục thay đổi). Yếu tố thứ hai đáng bàn ở đây là nhân vật. Có cảm giác tác giả “chia đều” sự quan tâm của mình cho các nhân vật, nên mỗi nhân vật đều “sa chân” vào những “bước hụt”. Bên “phía ánh sáng” (tạm gọi) có ông Thuận, bà Nhã, ông Lũy, sỹ quan CSKV Hiếu, cô Chi (con gái ông giáo Phúc); bên “phía nửa sáng nửa tối” có ông Vương, bà Miện (chủ tịch phường), Lượng (con trai bà Miện), Nghễnh (cán bộ địa chính phường, con ngoài giá thú của ông Vương), Thủy (vợ Nghễnh); “phía bóng tối” có Tuấn Trọc (kẻ cho vay nặng lãi), và những kẻ côn đồ đâm thuê chém mướn đã truy sát Hiếu,…Có thể ý đồ của nhà văn là trình bày một toàn cảnh về cõi nhân sinh với những kiếp người không ai giống ai. Từ ý đồ đến hiệu quả nghệ thuật là một một nội lực lao động sáng tạo của tác giả.

Tiểu thuyết có một kết thúc “có hậu” không thể nào khác – Hiếu được cứu sống nhờ có máu của ông Thuận cùng nhóm. Ngày từ bệnh viện trở về, cạnh anh là cha đẻ, cha nuôi và Chi “Anh nắm bàn tay người con gái mình yêu mà thầm thì bên nàng: “Số phận đã mỉm cười với anh phải không em. Chi chỉ im lặng ngả đầu lên vai người cảnh sát khu vực của riêng mình”.

Ai đó nói quá đi, thời bây giờ không có gì là có hậu. Nhưng theo triết lý của đạo Phật thì vẫn có quy luật “ở hiền gặp lành”, “gieo nhân nào gặt quả ấy”./.

 

Hà Nội, tháng 8-2017

B.V.T

 

Nhà văn Trần Thanh Cảnh

Viết Kinh Bắc, trường hợp Trần Thanh Cảnh

 

Hoài Nam

Đặt cạnh nhau, có thể nhận thấy điểm tương đồng giữa việc nhà thơ Hoàng Cầm viết tập thơ “Về Kinh Bắc” vào cuối năm 1959 đầu năm 1960, với việc nhà văn Trần Thanh Cảnh viết tập truyện ngắn “Kỳ nhân làng Ngọc” trong hai năm 2013 và 2014 (in năm 2015, NXB Trẻ, được Hội nhà văn Việt Nam trao giải thưởng về văn xuôi cùng năm). Đó là ở chỗ cả hai đã lấy hành vi viết như một phương cách để cân bằng với cái thực tại khắc nghiệt mà họ đang phải đối mặt hàng ngày: với Hoàng Cầm là tình cảnh bị câu thúc, bị kiềm tỏa trong cái án văn chương lớn vào bậc nhất nhì của thế kỷ XX, với Trần Thanh Cảnh là những sóng gió thương trường đang làm đao lao cả nền kinh tế mà ông vật vã tồn tại trong đó với tư cách một doanh nghiệp. Nhưng cũng có những điểm khác. Hoàng Cầm viết về Kinh Bắc của tâm cảnh, trong một trạng thái hồi cố như chính ông giãi bày ở phần “Vĩ thanh” của tập thơ: “Hồn tôi cứ chìm dần, chìm sâu, chìm và lắng thật sâu vào vùng quê tôi ngày xưa, thời tôi còn nhỏ dại, với biết bao bóng dáng, đường nét, màu sắc, hương vị đã quá xa, đã không còn nữa”. Còn Kinh Bắc của Trần Thanh Cảnh là Kinh Bắc của thực cảnh, Kinh Bắc được viết trong một sự quan sát và tiếp xúc rất gần gũi, thậm chí ngay cả khi ông đẩy Kinh Bắc về phía quá khứ xa  thì Kinh Bắc ấy vẫn chịu sự chi phối của lập trường hiện tại. Chưa hết, Hoàng Cầm gọi tên Kinh Bắc khi viết về Kinh Bắc, còn Trần Thanh Cảnh lại gom tất cả những  nhận biết về Kinh Bắc của mình mà nhào nặn, hư cấu, tạo thành một cái làng giả định mà ông đặt tên là làng Ngọc. Chỉ vài khía cạnh như vậy thôi, có lẽ là đủ để thấy rằng với tập truyện ngắn “Kỳ nhân làng Ngọc”, Trần Thanh Cảnh đã cố gắng xác định một cái viết Kinh Bắc khác, khác với chính cái viết Kinh Bắc của người tiền bối đồng hương nổi danh trong làng thơ Việt.

Đọc “Về Kinh Bắc” – và không chỉ “Về Kinh Bắc”, mà còn là những kịch thơ “Kiều Loan” và “Trương Chi”, là trường ca “Tiếng hát quan họ”, là truyện thơ “Men đá vàng” v.v – qua diễn giải Kinh Bắc của Hoàng Cầm, người ta có thể dựng lên trong hình dung của mình về một Kinh Bắc mờ mờ trong sự đan quyện giữa huyền thoại và lịch sử, một Kinh Bắc vừa thâm trầm cổ kính vừa lả lơi tình tứ, một Kinh Bắc của những câu hát quan họ quyến luyến níu giữ hồn người, một Kinh Bắc của những hội hè đình đám miên man suốt mấy tháng xuân, một Kinh Bắc của những người con gái đẹp mặn mà và những khối tình uất kết chỉ chực chờ để bung tỏa. Đọc “Kỳ nhân làng Ngọc”, người ta không hình dung được nhiều đến thế. Bởi lẽ, dường như mối bận tâm lớn nhất của Trần Thanh Cảnh trong cái viết Kinh Bắc – qua những câu chuyện xảy ra ở làng Ngọc – chỉ là nhận diện và khám phá, theo cách của riêng ông, cái đặc tính nổi bật nhất, sâu gốc bền rễ nhất của đất và người Kinh Bắc. Đặc tính ấy, có thể nói một cách ngắn gọn, là đa tình và phóng dục. “Kỳ nhân làng Ngọc” gồm mười bốn truyện ngắn, không truyện nào không nói đến yêu đương nam nữ và cái sự “làm việc yêu” của con người. Ngay ở truyện đầu tiên của tập, “Hội làng”, Trần Thanh Cảnh đã đưa người đọc vào một không gian lễ hội còn bảo lưu rất đậm những thực hành của tín ngưỡng phồn thực: “Làng có lệ, đêm hội làng làm lễ trút xiêm y cho bà, mở khán lấy sinh thực khí, hai trai chưa vợ cầm chắc trong tay, theo nhịp hô của cụ từ: “Tình xòe tình phập, tình xòe tình phập”. Mỗi lần “phập” lại đưa sinh thực khí vào nường bà. Cứ thế ba lần, sau đó tắt đèn đuốc tháo khoán. Nam nữ, trai gái tha hồ mò mẫm tình tự đến sáng thì thôi”. Đoạn văn trên hoàn toàn là những mô tả khách quan, tuyệt đối không có lời đánh giá hay thái độ tình cảm của người kể chuyện xen vào. Nhưng nó là sự chuẩn bị cần thiết để sau đó hai trang sách sẽ có một đoạn văn, theo nghĩa nào đó, ánh xạ phát hiện của người kể chuyện về cái “nết đất” của làng Ngọc: “Cụ từ vừa hô: “Tắt đăng!”. Màn đêm đặc quánh, nồng ẩm, thơm nức hương xuân chợt trùm xuống như vừa có cái chăn khổng lồ chùm lên cả làng Ngọc. Tiếng chân người chạy cuống quýt. Tiếng gọi nhau âu yếm của bạn tình. Tiếng gắt yêu của những bàn tay nhầm chỗ… Rồi dần dần những âm thanh rạo rực huê tình tản ra khắp xóm ngõ, đầu sông, bến bãi”. Và không phải chỉ trong thời gian làng vào hội – tức “thời gian mạnh”, theo cách nói của nhà nghiên cứu lịch sử tôn giáo người Rumani Mircea Eliade – mà ngay trong những khoảng thời gian của đời sống thường nhật, “thời gian phàm”, thì người làng Ngọc vẫn trình ra hình ảnh của một kiểu sinh hoạt hồn nhiên đến mức phóng túng. Ở truyện ngắn được lấy tên chung cho cả tập, “Kỳ nhân làng Ngọc”, có đoạn mô tả: “Dân làng Ngọc từ xưa đến nay, già trẻ nam nữ thường hay ra tắm trần ngoài đầm. Trên cầu ao, các cô thôn nữ hồn nhiên cởi trần dội nước ào ào và kỳ cọ bộ ngực trinh nữ rắn chắc hồng hào. Ở bên cầu ao chỗ khác, mấy ông già làng thì lại điềm nhiên khỏa thân tắm gội, chim cò để thỗn thện cứ như cuộc đời này chả còn gì quan tâm”. Sống một đời sống hồn nhiên như thể không cần phải để ý đến bất cứ một ràng buộc hình thức nào trong những nguyên tắc lễ giáo, sự đa tình và phóng dục của người làng Ngọc hình thành như kết quả tất yếu của cuộc chuyển dịch từ “nết đất” vào “tính người”. Ví như, cũng ở truyện “Kỳ nhân làng Ngọc”, khi thằng Bình con ông Ba Be, mười sáu tuổi, bị tố cáo hiếp dâm con gái ông lý Lưu, mười ba tuổi, ông Ba Be “đã chửi ầm cả lên” ở ủy ban. Lời chửi tựa như một diễn ngôn về phẩm chất đa tình và phóng dục của dân làng Ngọc: “Nữ thập tam nam thập lục, nó thích nhau thì nó đéo một cái, rồi cưới nhau chứ có gì mà hiếp. Cứ thế thì xưa nay trai làng Ngọc này mang tội hết à? Tao cũng hiếp vợ tao năm nó mới có mười ba tuổi ở bờ ruộng, thằng lý Lưu cũng đè ngửa vợ nó ra đêm hội làng lúc mới có mười bốn. Bây giờ cũng mấy chục năm, mấy mặt con, sắp lên ông lên bà cả rồi, có việc gì đâu”.

Nết đất, tính người. Và xét cho cùng, đặc tính đa tình và phóng dục của đất và người làng Ngọc chính là hiện thể cho một “cái sống” ngồn ngộn phong nhiêu, một sức sống mạnh mẽ, căng tràn, sôi sục, tựa như dòng nham thạch mà không gì có thể ngăn được nó tuôn trào. Chạm vào dòng mạch ấy, cái viết Kinh Bắc của Trần Thanh Cảnh đã đẻ ra một số nhân vật khá ấn tượng. Nhân vật Bình trong truyện “Kỳ nhân làng Ngọc” – một Alexis Zorba của văn chương Việt Nam, có thể nói vậy – là một ví dụ. Bình sống, từ trẻ đến già, như làm một cuộc rong chơi giữa cuộc đời, thích thì làm bằng được, không thích thì bỏ ngay tắp lự, không chấp nhận bất cứ sự lệ thuộc gò bó nào. Bình phóng túng trong quan hệ nam nữ là vì thế. Bình bỏ phắt đơn vị khi đang đường đường là tấm gương chiến đấu diệt Mỹ điển hình được tuyên dương trước toàn quân, cũng là vì thế. Về quê, Bình sống tự do, ngất ngưởng, “không giấy tờ, không hộ khẩu, không ruộng đất, không là xã viên hợp tác xã”, bảy mươi tuổi mà vẫn “có thể uống rượu cả ngày, từ sáng tới đêm rồi lại từ đêm tới sáng”, lúc say rượu “cứ bơi sông ùm ùm hàng ngày, hè cũng như đông, mãi không thấy chết đuối”. Nhưng “kỳ” nhất vẫn là sự kiện Bình dọn về ở với đứa con gái (nay đã thành bà) từng khiến ông bị tố cáo hiếp dâm năm nào. Một câu bình luận nơi quán xá của bọn trẻ trong làng bật ra, tếu táo, ngỗ ngược, nhưng cho thấy được “cái sống” của nhân vật này: “Đôi ấy già mà yêu nhau phê lắm nhé, rên cứ ồ ồ như trâu rống”. Một ví dụ khác, là nhân vật Hàn Xuân trong truyện “Giỗ hậu”. Không những sở hữu một nhan sắc quyến rũ đến mê hồn, Hàn Xuân còn được mô tả như một người đàn bà khát sống, khát yêu, một núi lửa luôn trong trạng thái chực chờ  để được bùng lên dữ dội và thăng hoa ngây ngất trong cơn cuồng khấu yêu đương. Đàn ông mê mẩn Hàn Xuân. Nhưng tất cả những người đàn ông đến với nàng đều phải chịu kết cục bi thảm: hai ông chồng trước (người Việt Nam) bị chết vì thượng mã phong; ông thứ ba (Tây thực dân) bị hội kín ở thượng du Bắc Kỳ phục kích, ông may mắn thoát chết, nhưng bị một mũi lao phóng thẳng vào hạ bộ, xén dương vật tới tận gốc, “đốc tờ Tây chịu chết, không làm gì được”. Bản thân Hàn Xuân cuối cùng cũng chết vì chính sắc đẹp của mình: nàng cắn lưỡi tự tử để cự tuyệt sự cưỡng đoạt của một tên tá điền thuộc loại vô sản lưu manh. Ở nhân vật này có sự lặp lại chủ đề “hồng nhan đa truân” vốn khá phổ biến trong văn chương Việt Nam, nhưng mặt khác, đó chính là sự khuếch đại năng lượng yêu đương, khuếch đại cái “chất” đa tình và phóng dục đã trở thành đặc tính của người làng Ngọc.

“Giỗ hậu”, “Kỳ nhân làng Ngọc” – và cả “Hoa gạo tháng ba” hay “Hương đêm” nữa – là những truyện mà trong đó thời gian của chuyện kể được đẩy lùi về khá xa. Còn lại trong tập, là những truyện của/ về thời hiện tại tiếp diễn. Đọc chúng, không khó để ta có thể bắt gặp những dư ảnh hay tiếng đồng vọng của những vấn đề đang diễn ra trong đời sống xã hội ngày hôm nay. Ở truyện “Ngay trong đêm” là tệ nạn cờ bạc. Ở truyện “Có trời” là thói nhận hối lộ nơi công đường. Ở truyện “Sếp tổng” là cung cách làm ăn dối trá cốt để móc tiền của các doanh nghiệp nhà nước. Ở truyện “Ngôi biệt thự bỏ hoang” là đủ thứ nhếch nhác ám muội của ngành giáo dục. Ở truyện “Giấc mơ” là cái thực tế sinh viên thất nghiệp sau khi ra trường v.v… Có thể nói, làng Ngọc/ Kinh Bắc của Trần Thanh Cảnh đang phải chứng kiến, thậm chí đang phải hứng chịu nhiều tác động dữ dội theo hướng tiêu cực. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, trong tất cả các truyện ngắn của ông, làng Ngọc vẫn luôn dư thừa sự đa tình và phóng dục, những phẩm chất cốt yếu làm nên “cái sống” nổi bật và bền vững của nó. Lẽ dĩ nhiên, một người đọc Kinh Bắc nghiêm trang đạo mạo nào đó có thể không thích, không chấp nhận điều này. Nhưng xin đừng quên rằng “Kỳ nhân làng Ngọc” của Trần Thanh Cảnh không phải một công trình nghiên cứu tâm lý xã hội học địa phương, mà nó là văn chương; nó không đóng khung trong sự phản ánh, mà nó hư cấu. Nói tóm lại, “Kỳ nhân làng Ngọc” là một diễn giải Kinh Bắc theo cách của Trần Thanh Cảnh, là cái viết Kinh Bắc của chỉ riêng ông.

 

Vanvn.net

Phạm Thúy Quỳnh đưa bài