Trần Thị Hồng Hoa
Nghệ thuật là món ăn tinh thần không thể thiếu trong xã hội từ xưa đến nay và luôn gắn bó chặt chẽ với diễn trình phát triển của một đất nước. Đời sống vật chất càng nâng cao thì đời sống tinh thần càng được quan tâm, chú ý.
Ảnh minh họa: nguồn Internet
Nhưng không phải ai cũng hiểu được những nỗ lực và mất mát mà người nghệ sĩ phải đánh đổi để đạt được thành tựu trong bất kì lĩnh vực nghệ thuật nào đó (hội họa, văn học, âm nhạc hay sân khấu, điện ảnh…). Sau năm 1975, nhu cầu giãi bày, hồi cố, tri âm với công chúng của những người làm nghệ thuật đã trở thành nhu cầu chính đáng, bức thiết và ngày càng có điều kiện lan tỏa rộng rãi trong xã hội hiện đại với sự hỗ trợ của cơ chế in ấn thông thoáng và sự lăng xê tích cực của báo chí truyền thông. Đáp ứng nhu cầu “nói thẳng, nói thật” của thời kì Đổi mới, hồi kí của nghệ sĩ sau năm 1975 đã xóa bỏ hình tượng nghệ sĩ đẹp đẽ, đơn sắc trong lòng bạn đọc để tái hiện những con người bình thường nhưng muôn màu muôn vẻ trong phồn tạp đời sống, giúp chúng ta nhìn rõ hơn những chân dung nghệ sĩ sau ánh hào quang lấp lánh của thành công và ngưỡng vọng.
Hồi kí văn học nở rộ chưa từng có với những gương mặt nổi bật như Tố Hữu, Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Đặng Anh Đào, Tô Hoài, Ma Văn Kháng, Phùng Quán, Bùi Ngọc Tấn, Huy Cận… Qua những trang hồi kí, chúng ta biết nhiều nhà văn đến với nghề viết bằng sự chuẩn bị và nghiên cứu công phu từ lúc trẻ như Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Ma Văn Kháng, Tô Hoài… nhưng cũng có người như Phùng Quán bị đưa đẩy vào nghề bởi sự tình cờ của số phận. Trong một lần đi bộ về đơn vị, anh lính trẻ Phùng Quán dừng chân bên một quán nước, bất chợt nhìn ra ven đường có một cái cột cây số sứt mẻ in chữ “Hà Nội 157km” và cũng vì “cái cột số rêu phong xui khiến” mà “đáng lẽ đi về phía Nam thì tôi lại đi ngược ra phía Bắc” (Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào) để rồi cho ra đời tác phẩm đầu tay Vượt Côn Đảo đánh dấu sự gia nhập ngoạn mục vào làng văn. Sao Mai đến với nghiệp viết hồn nhiên đến liều lĩnh “…tôi vào nghề này lại như anh điếc không sợ súng” (Sáng tối mặt người). Vũ Bão vốn là một phóng viên nhưng đã đến với nghề viết một cách tự nhiên và thu được những kết quả bất ngờ…
Bên cạnh những câu chuyện đời thường thú vị, phần hấp dẫn nhất trong hồi kí của các nhà văn vẫn là những sự kiện, những giai thoại xoay quanh quá trình lập thân, lập nghiệp, đến những tác phẩm nổi tiếng có tầm ảnh hưởng lớn của họ. Hồi kí Tố Hữu hé lộ hoàn cảnh sáng tác nhiều bài thơ nổi tiếng của tác giả. Bài Một tiếng rao đêm được Tố Hữu sáng tác trong hoàn cảnh: “Đêm đêm, khi đã khuya mà chưa ngủ được tôi thường nghe một tiếng rao của một em bé gái (…) Bỗng nghe tiếng Lung cười to mà như một tiếng nấc: – Con gái út của tao đó (…) Hắn biết tao ở trong này nên cố ý rao to cho tao nghe đó. Thế là ngay hôm ấy, tôi lẩm nhẩm bài Một tiếng rao đêm” (Nhớ lại một thời – Tố Hữu); bài Tiếng hát đi đày được ông khởi thảo “trên cái ghế dài lắc lư của xe tải” trong một hành trình dài, hay bài Con cá chột nưa được sáng tác trong hoàn cảnh tác giả mặc dù bụng đói đến quặn thắt ruột gan nhưng vẫn kiên quyết tuyệt thực để đấu tranh phản đối những tội ác của kẻ thù: “Thực sự đó là một cuộc đấu tranh rất căng thẳng giữa lí trí và bản năng. Tôi mượn thơ để trợ lực cho mình. Thế là tôi lẩm nhẩm trong đầu bài Con cá chột nưa dưới dạng cuộc đấu tranh giữa cái đầu và cái bụng” (Nhớ lại một thời – Tố Hữu). Hồi kí của Anh Thơ tiết lộ những tác phẩm thơ và kịch của bà ra đời trong những đêm nữ sĩ mất ngủ vì mỏi mệt với nhiệm vụ nhưng mỗi tác phẩm vẫn nhẹ nhàng, lãng mạn như không. Tập truyện Phá đám của Vũ Bão được hoàn thành trong bệnh viện nhưng vẫn đầy hấp dẫn. Những tiểu thuyết nổi tiếng của Ma Văn Kháng ra đời trong thời kì bao cấp, khi cả gia đình chui rúc trong căn nhà ổ chuột, nhà văn viết được trang nào lại phải giúi xuống dưới gầm giường cùng lũ xoong nồi bẩn thỉu.
Nếu không có những trang hồi kí “trung thực đến đáy”, bạn đọc sao thấm thía được muôn nỗi nhọc nhằn, đắng đót Nỗi đời cơ cực đang giơ vuốt/ Cơm áo không đùa với khách thơ của nghề văn. Nói là nghề nhưng có mấy ai sống được nhờ nghề. Biết rõ là vậy nhưng các nhà văn vẫn không buông bỏ niềm say mê với con chữ. Ngay cả khi buộc phải lựa chọn, những người viết chân chính có lẽ cũng sẽ dứt khoát sống chết với nghề mà không chút nao núng như nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê: “Nếu mỗi người phải đóng một vai trò trong xã hội thì tôi lựa vai trò thư sinh. Sống giữa sách và hoa, được lòng quý mến, tin cậy của một số bạn và độc giả, tôi cho là sướng hơn làm một chính khách được hàng vạn người hoan hô” (Hồi kí Nguyễn Hiến Lê).
Có thể thấy, quá trình nhà văn bén duyên với nghề cho đến khi xác lập phong cách và tìm được chỗ đứng trong làng văn là một hành trình đầy khó nhọc. Nhưng khi nhìn nhận, đánh giá lại chặng đường đời đã qua, hầu hết các tác giả hồi kí đều không kêu ca, oán thán quá khứ. Viết về hành trình nghề nghiệp của mình, có người dùng giọng tự trào hài hước như Tô Hoài, Quách Tấn, Vũ Bão; có người lấy giọng trữ tình mượt mà làm giọng chủ đạo như Anh Thơ, Phùng Quán, Huy Cận, Đặng Anh Đào; có người lại dùng giọng triết lí suy nghiệm như Đặng Thai Mai, Đặng Thị Hạnh, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Hiến Lê, Tố Hữu… Dù bằng cảm hứng hay giọng điệu khác nhau thì xuyên suốt trong những trang viết vẫn là thái độ cầu thị nghiêm túc và niềm say mê, tâm huyết với nghề của các nhà văn. Đó là những nhân cách sống đáng để cho chúng ta phải trân trọng và học tập.
Bên cạnh hồi kí của các nhà văn, còn có hồi kí của các nghệ sĩ thuộc các lĩnh vực nghệ thuật khác. Mảng âm nhạc có Hồi kí Phạm Duy, Hồi kí Trần Văn Khê, Nguyễn Văn Tý tự họa, Hồi kí Trịnh Công Sơn, Chúng tôi đã sống như thế (tác giả là bà Ánh Tuyết – vợ của nhạc sĩ Phạm Tuyên), Để gió cuốn đi của ca sĩ hải ngoại Ái Vân, Đằng sau những nụ cười của ca sĩ Khánh Ly… Mảng sân khấu – điện ảnh có hồi kí của một loạt tên tuổi quen thuộc: Phim là đời của đạo diễn Đặng Nhật Minh, Lê Vân – yêu và sống của diễn viên Lê Vân, Sống cho người-sống cho mình của kì nữ sân khấu Kim Cương, Một đời giông bão của diễn viên Thương Tín, Tâm thành và Lộc đờicủa nghệ sĩ Thành Lộc… Những hồi kí này đều mang dáng dấp tự truyện, hầu như được chấp bút bởi những người viết chuyên nghiệp nên rất thu hút độc giả.
Từ góc nhìn thế sự, một số hồi kí đã nhìn nhận về những chặng đường phát triển của nghệ thuật nước nhà cũng như mạnh dạn nêu lên những vấn đề thời cuộc, đã và đang gây nhức nhối trong dư luận thông qua những cách thức trần thuật đa dạng và giọng điệu mang phong cách riêng của người viết. Hồi kí Trần Văn Khê dùng cách viết mạch lạc, cấu trúc sự kiện được định danh gọn gàng qua những địa điểm, thời gian cụ thể để lột tả chân thực hành trình hội nhập của nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam ra thế giới. Mang kiến thức âm nhạc uyên thâm và niềm tự hào cháy bỏng về văn hóa cổ truyền của dân tộc, giáo sư Trần Văn Khê đã gạt đi nỗi tự ti của một dân tộc nhỏ bé trước các cường quốc âm nhạc như Mĩ, Anh, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản để khẳng định tiềm năng và vạch ra con đường cần phải bước tiếp cho âm nhạc Việt Nam trong tương lai. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý qua giọng kể trầm buồn không khỏi chua xót khi nhắc đến những nỗi đau, những “tai bay vạ gió” trong quá khứ vì những ca khúc nổi tiếng của mình như chuyện bài Dư âmliên tiếp bị chất vấn vì tội “làm bài hát lãng mạn khi còn đang kháng chiến” hay bài Dáng đứng Bến Tre bị cấm hát vì… “chưa nói gì về Bến Tre cả”. Với phong cách của một đạo diễn chuyên nghiệp, Đặng Nhật Minh lại biến hồi kí của mình thành những “đúp” phim quay nhanh, phanh phui những sự thật nghiệt ngã của đời sống và nền điện ảnh nước ta thuở đầu. Những chi tiết đắc địa được vị đạo diễn tài ba lựa chọn và kết nối trong dòng chảy của sự kiện đã gây ra hiệu ứng mạnh: cảnh những người dân kêu oan đuổi theo xe ông với những tờ đơn phấp phới, cảnh các liên hoan phim Việt bị thao túng bởi những mưu đồ kinh tế và những sự đấu đá của các ban ngành, chuyện những bộ phim kinh điển của màn ảnh Việt như Bao giờ cho đến tháng Mười vàThương nhớ đồng quê phải chịu bao gièm pha, soi mói khắt khe, chụp mũ thô thiển…
Từ góc nhìn đời tư, nhiều hồi kí là lời tự biện trung thực đến mức tàn nhẫn của người nghệ sĩ về số phận cá nhân gắn chặt với các hoạt động nghệ thuật đặc thù. Và qua mỗi câu chuyện, ta nhận ra dường như những cuộc đời làm nghệ thuật ấy đều có một điểm chung, đó là: chữ tài liền với chữ tai một vần. Lê Vân nhìn thẳng vào những góc khuất của một gia đình nghệ sĩ danh giá để kể lại những câu chuyện trần trụi đến đau lòng về cha mẹ của mình đồng thời không giấu giếm những cuộc tình đầy tai tiếng với ba người đàn ông thuộc ba quốc tịch khác nhau, dám đối diện với dư luận để gọi tên những khát vọng đầy bản năng của người đàn bà luôn muốn “yêu và sống”. Khánh Ly chỉ ra “đằng sau những nụ cười” trên sân khấu rực sáng là biết bao nước mắt, vấp ngã đớn đau của một người phụ nữ tài hoa. Chung mạch cảm hứng, những dòng tâm sự lay động của ca sĩ Ái Vân về giai đoạn vượt biên “kinh khủng, đau đớn, nhục nhã” và cuộc đời thăng trầm của mình khiến người đọc không khỏi xót xa cho một đời cầm ca “hồng nhan bạc mệnh”. Hồi kí Kim Cương với thời gian hoàn thành kéo dài đến 40 năm góp thêm những sự thật “gai người” về gia đình, dòng tộc, xuất thân, chặng đường đời – đường nghề nhiều gian nan nhưng đầy vinh quang của một nghệ sĩ sân khấu hàng đầu.
Dù thế nào, ẩn giấu sau những sự thật nhiều khi gây tranh cãi về lập trường tư tưởng, đạo đức, lối sống luôn là khao khát được tri âm, chia sẻ và cảm thông của người nghệ sĩ, những người đã dùng trải nghiệm đời sống phong phú để đốt cháy mình trong từng tác phẩm. Cũng chỉ sau năm 1975, người nghệ sĩ mới dám phát ngôn và có cơ hội để phơi mở đời tư của mình một cách thẳng thắn và dũng cảm như thế.
Văn nghệ Quân đội
Phạm Thúy Quỳnh đưa bài