(Kỳ II)

(Nữ sĩ Hồ Xuân Hương, ảnh minh họa)


II – TÌNH DUYÊN CỦA TÁC GIẢ LƯU HƯƠNG KÝ

Khác với TTT toàn là thơ Nôm, tập LHK gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài chữ Nôm nhưng tựa đề thì vẫn bằng chữ Hán. Ðọc LHK ta thấy Xuân Hương có khá nhiều bạn trai, bạn thơ, bạn tình… nào Nguyễn Hầu, nào Trần Hầu, nào Tốn Phong thị, Mai Sơn Phủ, Thạch Ðình, Cự Ðình, Thanh Liên, Chí Hiên… Trong số những bạn trai này, có khá nhiều bạn tình thế nhưng trong “Bạch Ðằng giang tạm biệt” tác giả vẫn lên tiếng trách người bạn tình không chung thủy:

Tơ tóc lời kia còn nữa hết ?
Chớ thói lưng vơi cỡ nước Ðằng (19).

và than thân, trong “Cảm cựu kiêm trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu” :

Phấn son càng tủi phận long đong.
(…)
Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng chong.

LHK có rất nhiều câu than thân nên Trần Thanh Mại mới nhận xét :”LHK là tiếng kêu thất vọng để có một tình yêu thành thực, thủy chung” (20). Ông Trần Thanh Mại xót thương “người đẹp” thì nghĩ thế chứ công bình mà nói thì Xuân Hương của LHK thiếu gì bạn tình, chính mình không chuyên nhất, không chung thủy, sao có thể trách người chẳng thủy chung ?

Sau đây là những người bạn tình của Xuân Hương, căn cứ vào tập thơ LHK :

A – NGUYỀN HẦU

Trong LHK có một bài rất được chú ý là bài “Cảm cựu kiêm trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu – Hầu, Nghi-xuân, Tiên-điền nhân” (= Nhớ bạn cũ viết gửi Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu – Hầu, người ở Nghi-xuân, Tiên-điền) khiến ta nghĩ ngay đến Nguyễn Du bởi Nguyễn Du quê ở Nghi-xuân, Tiên-điền, năm 1805 được phong Du Ðức Hầu, đến năm 1813 thăng Cần Chánh học sĩ sung Chánh sứ sang tuế cống nhà Thanh. Bài này chắc viết sau khi Nguyễn Du được phong làm Cần Chánh học sĩ (tháng giêng năm 1813) và trước khi Tốn Phong Thị hoàn tất bài “Tựa” LHK (tháng hai năm 1814).

Khó lòng có thể có một người họ Nguyễn thứ hai ở Tiên-điền cũng được phong làm Cần Chánh học sĩ cùng trong khoảng thời gian này. Trần Thanh Mại là người đầu tiên phát hiện ra bài thơ và cũng là người đầu tiên đoán “Nguyễn Hầu” là Nguyễn Du.

Chúng ta thử nhận xét mối tình giữa cặp tài tử Hồ Xuân Hương – Nguyễn Du.

1 – Tình của Xuân Hương đối với Nguyễn Du qua bài thơ “Cảm cựu…”

Câu 1 & 2 :

Dậm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Cậy ai tới đấy gửi cho cùng.

“Dậm khách” trỏ vào chuyện Nguyễn Du đang trên đường đi sứ.

Hai câu thơ này cho ta có cảm tưởng trên đường đi sứ, qua Thăng-long, Nguyễn Du có gập lại Xuân Hương và bài thơ được Xuân Hương sáng tác ngay sau khi đôi bên chia tay, lúc tâm thần đang bị khích động nên mới có “muôn nghìn nỗi nhớ”. Nếu không phải vừa mới gập lại nhau mà chỉ bình tĩnh ngồi hồi tưởng lại mối tình chia cắt đã gần một chục năm, kể từ khi Nguyễn Du vào Kinh làm quan (1805), thì tình đã lắng xuống, nhạt phai, làm sao có thể xúc động để có “muôn nghìn nỗi nhớ” được ?

Câu 3 & 4 :

Mối tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.

Xuân Hương nói rõ hai người dan díu với nhau đủ “ba năm vẹn”, vậy ta thử tìm xem họ yêu nhau vào thời điểm nào ?

a – 1781-4 ? Thời gian này hai người cùng có mặt ở Thăng-long hay không ?

Nguyễn Du tuy sinh (1765) ở Thăng-long nhưng năm mười tuổi mồ côi cha phải đến ở với anh là Nguyễn Khản được vài năm thì về quê học. Năm 17 tuổi ta (1781), Nguyễn Du trở ra Thăng-long, đi thi đỗ Tam trường (21) rồi ở lại Thăng-long cho tới khi kiêu binh phá nhà Nguyễn Khản (1784), Nguyễn Du phải trốn lên Thái-nguyên ở với cha nuôi họ Hà, giữ chức Chánh Thủ hiệu (một chức quan võ nhỏ) ở đó. Như thế thì sự hiện diện của Nguyễn Du ở Thăng-long trong khoảng thời gian 1781-4 coi như chắc chắn.

Về Hồ Xuân Hương, ông H.X. Hãn đoán bà sinh năm 1772 thì đến 1781 bà mới có 9 tuổi, dù cả hai đều có mặt ở Thăng-long đủ ba năm cũng không thể bắt tình với nhau được.

Huống chi, theo ông Hồ Trọng Chuyên thì năm 13 tuổi Xuân Hương còn ở quê nhà (Châu Hoan = Nghệ-Tĩnh) xướng họa với Dương Tri Tạn rồi mới dời quê theo cha ra Bắc. Cứ cho là Xuân Hương ra Thăng-long năm 13, tức là 1772 + 13 = 1785, nhưng lúc ấy Nguyễn Du không còn ở Thăng-long mà đang ở Thái-nguyên (22).

b – GS H.X. Hãn đưa ra hai thời điểm khác : 1790-3 và 1792-5 (23) song lúc ấy Tây-sơn đã ra Bắc và Nguyễn Du chống Tây-sơn nên về ở nhà người anh vợ là Ðoàn Nguyễn Tuấn ở Quỳnh-hải (Thái-bình) trong mười năm, từ 1786 đến 1796 (khi Nguyễn Du vào Nam, định theo chúa Nguyễn nhưng giữa đường bị quân Tây-sơn bắt được, giam ba tháng mới thả ra). Trong thời gian mười năm này, Nguyễn Du thường than trong thơ tình cảnh bệnh hoạn, nghèo túng, có khi mấy ngày bếp không nhóm lửa, vợ con nheo nhóc… Tuy nghèo nhưng cũng có hai lần Nguyễn Du ra Thăng-long :

– năm 1793, để thăm anh là Nguyễn Nễ, đích xác Nguyễn Du trọ ở gần Giám hồ (căn cứ vào bài “Long thành Cầm giả ca”) chứ không phải là “ở nhà Nguyễn Nễ, gần Giám hồ” như ông Hoàng Xuân Hãn nói ;

– và năm 1794 để tiễn Ðoàn Nguyễn Tuấn vào Kinh làm quan.

Có thể Nguyễn Du còn có những lần khác ra Thăng-long mà ta không biết, song với tình cảnh nghèo túng, bệnh hoạn, lại ôm hoài bão hoạt động để khôi phục nhà Lê, khó có thể tin Nguyễn Du tìm cách ra Thăng-long để dan díu với Xuân Hương. Dù có chăng nữa thì cũng chỉ là những cuộc gập gỡ ngắn ngủi, bị gián đoạn, khó có thể là mối tình “ba năm vẹn”.

c – 1802-5 ? Thời điểm này cũng không thích hợp nốt bởi mùa hè năm 1802 Nguyễn Du mới theo Gia-long ra Thăng-long mà đến đầu Xuân năm 1805 đã vào Kinh làm quan, tính ra chỉ có hai năm rưỡi, không đủ “ba năm vẹn”.

Câu 5 & 6 :

Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
Phấn son càng tủi phận long đong.

“Mừng duyên tấp nập” mà cho là trỏ vào chuyện Nguyễn Du được thăng lên chức Cần-chính Học sĩ và đi sứ e rằng quá khiên cưỡng, nếu trỏ vào chuyện Nguyễn Du cưới vợ thì có lý hơn bởi câu sau cho thấy Xuân Hương chạnh nghĩ đến duyên phận lẻ loi của mình mà “tủi phận long đong”. So sánh duyên phận Nguyễn Du với thân phận mình, như thế mới đối.

Câu 7 & 8 :

Biết còn mảy chút sương siu mấy, (24) 
Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng chong.

Hai câu này nối ý hai câu trên, than cảnh Xuân Hương lẻ bóng, đơn chiếc.

2 – Tình cảm của Nguyễn Du đối với Xuân Hương

a – Tuy Xuân Hương nói mối tình kéo dài “ba năm vẹn” thế mà trong cả tập LHK không có lấy một bài thơ của Nguyễn Du xướng hay họa với Xuân Hương, đối với cặp tài tử hay thơ như Xuân Hương – Nguyễn Du kể cũng lạ.

b – Năm 1813, Nguyễn Du trên đường đi sứ, đã gập lại Xuân Hương ở Thăng-long, Xuân Hương viết bài “Cảm cựu…” tả “muôn nghìn nỗi nhớ nhung” của mình thế nhưng Nguyễn Du lại không có bài thơ nào nhắc nhở đến Xuân Hương và mối tình “ba năm” ấy. Suốt dọc đường đi sứ ta chỉ thấy Nguyễn Du nghĩ đến “cô Cầm” để rồi sáng tác ra bài “Long thành Cầm giả ca” nổi tiếng, nhưng tuyệt nhiên không có lấy một nửa lời nhớ nhung Xuân Hương ! Nếu bảo Nguyễn Du đang làm quan to, sợ “quan trên trông xuống, người ta trông vào”, như ông Hoàng Xuân Hãn nói, thì tại sao trong thời gian yêu nhau “ba năm vẹn”, chưa làm quan, cũng không có bài nào ? Không có trong LHK mà cũng không có trong những tác phẩm Nguyễn Du để lại.

c – Bài “Mộng đắc thái liên” (= Mộng thấy hái sen) của Nguyễn Du

GS H.X. Hãn cho rằng khi Nguyễn Du vào làm quan ở Kinh và ở Quảng-bình đã làm bài thơ này có lẽ vì nghĩ đến Xuân Hương.

Ðể xét xem người thiếu nữ trong thơ có thật là Xuân Hương hay không, tôi chọn bản dịch từng chữ của ông Mai Quốc Liên để giữ được đầy đủ chi tiết trong nguyên tác hơn là bản dịch thành thơ của các ông Lê Thước và Phạm Khắc Khoan mà GS H.X. Hãn dùng (25).

Mộng thấy hoa sen

Buộc chặt quần cánh bướm,
Hái sen, chèo thuyền con.
Nước hồ sao lai láng,
Trong nước có bóng người.

Hái, hái sen Hồ Tây,
Hoa và gương đều để trên thuyền.
Hoa để tặng người mình trọng,
Gương để tặng người mình thương.

Sáng nay đi hái sen,
Nên mới hẹn với cô láng giềng xóm Ðông.
Chẳng rõ đến lúc nào không biết,
Cách khóm hoa nghe cười nói.

Mọi người đều biết yêu thích hoa sen,
Nhưng ai là kẻ yêu thân cây sen ?
Trong thân cây sen có những sợi tơ,
Vấn vương không thể dứt được.

Lá sen sao xanh xanh,
Hoa sen đẹp đầy đặn.
Hái sen chớ làm hỏng ngó,
Sang năm sen không sinh lại được.

Những chi tiết về thiếu nữ hái sen không nhiều : cô ta mặc “quần cánh bướm”, và là “láng giềng xóm Ðông” của Nguyễn Du, song chẳng ai rõ nữ sĩ có mặc “quần cánh bướm” hay không, và hai người có là “láng giềng” bao giờ không. Nếu Xuân Hương là cô “láng giềng xóm Ðông” của Nguyễn Du thì, so với nhà của cô, ắt hẳn nhà của Nguyễn Du phải ở phía Tây phường Khán-xuân, song chúng ta chỉ biết thuở nhỏ Nguyễn Du ở nhà cha và anh tại phường Bích-câu, phía Nam Thăng-long, và năm 1793 khi Nguyễn Du từ Thái-bình ra Thăng-long thăm Nguyễn Nễ đã trọ ở gần Giám hồ, cũng là phía Nam Thăng-long nốt, chứ không phải gần Hồ Tây và phường Khán-xuân, tương truyền là nơi Xuân Hương cư ngụ, ở Tây Bắc. Kẻ ở Nam, người ở Bắc, đã không biết đích xác địa chỉ của hai người, làm sao xác quyết được họ là “láng giềng” với nhau ? Hơn nữa, Nguyễn Du chỉ nói đi hái sen ở Hồ Tây chứ không nói là đi hái sen với người thiếu nữ sống ở gần Hồ Tây. Chúng ta chẳng có bằng chứng nào tỏ ra người thiếu nữ hái sen chính là Xuân Hương cả.

Chúng ta cũng chưa có bằng chứng nào minh định là Nguyễn Du đã có một thời yêu Xuân Hương, bài “Cảm cựu…” chỉ “minh chứng” mối tình của Xuân Hương đối với Nguyễn Du mà thôi. Phần Nguyễn Du không có lấy một câu thơ nào cho biết đích xác Nguyễn Du có tình với Xuân Hương. Ở đời có khi “hoa rơi tuy hữu ý” mà “nước chẩy lại vô tình”, chung quy chỉ là “giấc mộng rồi ra nửa khắc không” !

B – TRẦN HẦU

1 – Tình của Xuân Hương đối với Trần Hầu

Trong LHK có ít nhất là 6 bài thơ xướng họa giữa Xuân Hương và Trần Hầu. Nữ sĩ cho biết Trần Hầu là người đồng hương. Hai người hâm mộ tiếng nhau mà đem lòng quyến luyến :

Bấy lâu ngư”ng mộ tiếng văn chương, nay mừng được gập mặt,
(…) Chén tình vừa nhắp đã nồng nàn, đôn hậu.
Thanh khí của châu ta còn được ưa chuộng,
Tài tình của chúng ta là chung đúc nơi đây (26).

Tuy quyến luyến nhưng chưa tiện ngỏ ý :

Thân bèo nước gập nhau, nâng chén rượu dưới trăng,
Tấc lòng son sắt thực khó nói.
Gọi đàn, vì có ý mà gẩy khúc Cầu Hoàng,
(…) Sau phút ly biệt, còn lưu luyến biết bao tình (27).

và :

Trăm năm gập gỡ là bao nả,
Thắc mắc sầu riêng khó giở ra (28).

Dẫu Xuân Hương tỏ ra có tình ý thắm thiết nhưng thực ra đôi bên chưa có gì gọi là gắn bó.

2 – Tình của Trần Hầu đối với Xuân Hương

Họ Trần xác nhận vì hâm mộ mà tìm đến nàng :

Giữa chốn Long thành được nghe nói đến nàng… (29).

nhận mình là người đồng hương :

Phương chi lại là người đồng quận (30).

và mình đã đứng tuổi :

Thương ta bất tài, mái tóc luống bạc… (31).

Còn về giao tình giữa hai người thì :

Chưa gập mà lòng đã mến trước,
Há phải đến lúc họa thơ với nhau mới có tình cảm mặn nồng ? (32)

Tình cảm mà đã “mặn nồng” từ trước khi gập mặt thì không phải là tình yêu mà chỉ là lòng mến mộ văn tài của Xuân Hương, huống chi Trần Hầu còn thêm :

Mừng cho nàng có phận gửi thân nơi quyền quý,
(…) Chỉ mong cái tình của chúng ta gập nhau trong mộng (33).

Hai câu này cho ta có cảm tưởng là thấy Xuân Hương đã kết duyên với người khác Trần hầu không tỏ vẻ đau khổ. Mối tình Trần Hầu – Xuân Hương cũng chỉ được coi là “mộng”, chẳng khác gì mối tình giữa Nguyễn Du và Xuân Hương.

3 – Trần Hầu là ai ?

Trong LHK, từ đầu chí cuối Xuân Hương chỉ xướng họa với một ” Hiệp trấn Sơn-nam-thượngTrần Hầu”, nhưng trongTục Hoàng Việt thi tuyển, Nguyễn Ðình Hồ có chép hai bài thơ chữ Hán của Xuân Hương :

“Ðang quét sân vừa đi vừa than để trả lời” (sau Trần Thanh Mại phát giác ra tác giả bài này là một thi sĩ Trung quốc) ;

“Bình thủy tương phùng nguyệt hạ tôn” là một bài thơ Xuân Hương “họa” “Hiệp trấn Sơn-nam-ha“, nhưng trong LHK lại chép là của Xuân Hương “xướng” với “Hiệp trấn Sơn-nam-thượng “.

Vì dựa vào Tục Hoàng Việt … GS H.X. Hãn tin là có tới hai ông Hiệp trấn họ Trần, một ở Sơn-nam-thượng và một ở Sơn-nam-hạ, và tìm ra cả tên của hai người :

a – Hiệp trấn Sơn-nam-thượng tên là Trần Ngọc Quán. Theo ông H.X.Hãn thì năm 1813, đời Gia-long, có Trần Ngọc Quán làm Cai bạ Quảng-đức (Thừa-thiên) đến năm 1815 được bổ chức “Hiệp trấn Sơn-nam-thượng” (Ðại Nam Thực Lục Chính Biên xác nhận).

Dứt khoát ta phải loại bỏ Trần Ngọc Quán vì lẽ đến tháng 2, 1815 ông này mới giữ chức “Hiệp trấn Sơn-nam-thượng” trong khi bài “Tựa” LHK đã viết xong từ tháng 2, 1814, tức là từ một năm trước, và tất nhiên những bài thơ trong LHK phải được viết ra từ trước bài “Tựa”.

b – Hiệp trấn Sơn-nam-hạ là Trần Quang Tĩnh. Vẫn dựa vào Ðại Nam Thực Lục Chính Biên, ông Hãn cho biết Trần Quang Tĩnh quê ở Gia-định, năm 1807 được thăng từ Cai bạ lên “Hiệp trấn Sơn-nam-hạ” (35).

Lần này thời điểm phù hợp nhưng lại không ổn về địa điểm : Trần Hầu trong LHK là “Hiệp trấn Sơn-nam-thượng” chứ không phải Sơn-nam-hạ. Trong Tục Hoàng Việt thi tuyển mới có “Hiệp trấn Sơn-nam-hạ” song độ tin cậy của Tục Hoàng Việt… không lấy gì làm cao, chép có hai bài thơ nói là của Xuân Hương thì một bài đã vơ nhầm của một thi sĩ Trung quốc, bài thứ nhì có nhầm từ Sơn-nam-thượng ra Sơn-nam-hạ, đổi “xướng” ra “họa”, cũng không phải là chuyện chẳng thể có.

Cứ cho là Tục Hoàng Việt… chép đúng thì ta phải sửa lại tất cả những bài thơ xướng họa với họ Trần trong LHK chứ không có lý do gì để tách riêng bài “Bình thủy tương phùng…” cho là liên quan đến “Hiệp trấn Sơn-nam-hạ” còn tất cả những bài khác thì vẫn với ông “Hiệp trấn Sơn-nam-thượng.

Mặt khác, Trần Hầu trong LHK là người đồng quận (châu Hoan) với Xuân Hương, còn Trần Quang Tĩnh quê ở Gia-định làm sao có thể coi là một được ?

Ông Ðào Thái Tôn cũng chép rằng bài “Bình thủy tương phùng…” là của “Hiệp trấn Sơn-nam-thượng“, theo LHK, nhưng trong phần chú giải thì lại chép theo ông H.X. Hãn về một “Hiệp trấn Sơn-nam-hạ” thành ra đầu đuôi không ăn nhập với nhau. Phải chăng ông Ðào thấy LHK “đáng tin cậy hơn” nhưng đồng thời ông cũng “muốn tin” học giả H.X.Hãn (36) ?

C – TỐN PHONG THỊ

Ngoài LHK Trần Thanh Mại còn phát hiện ra ở Thư viện Khoa Học Trung Ương một bài “Tựa” tập LHK kèm với 32 bài thơ của Tốn Phong Thị trong đó có 31 bài thơ chữ Hán nói đến mối tình giữa Xuân Hương và Tốn Phong. Theo bài “Tựa” thì Tốn Phong cũng quê ở châu Hoan như nữ sĩ, hai người gập nhau năm 1807 và đến năm 1814 thì Xuân Hương đưa tập LHK nhờ Tốn Phong viết Tựa. T.T.Mại đoán Tốn Phong họ Phan chỉ vì trong bài “Tựa” thấy nói Tốn Phong có cô “em họ tên Phan Mĩ Anh”. Ðoán thế là khiên cưỡng vì có thể là em họ bên ngoại, không cùng một họ.

Theo ông Lê Trí Viễn thì Xuân Hương có tới 10 bài thơ gửi Tốn Phong, tôi chỉ được đọc có năm bài với tựa đề nêu tên Tốn Phong.

1 – Tình ý của Xuân Hương đối với Tốn Phong

So với hai người “tình” trước thì mối tình của Xuân Hương đối với Tốn Phong xem ra gắn bó hơn, vì Xuân Hương nhắc tới “giải ước nguyền” trong bài “Tốn Phong Thị nằm mộng, ghi lại mang cho xem, nhân đó ghi thuật bằng thơ” :

(…) Chén tình đã nhẫn lâu mà nhạt,
Giải ước nguyền âu thắm chẳng phai.

và trong bài “Họa Tốn Phong nguyên vận” thì nhắc đến “chén thề, món tóc (thề), trăm năm…” :

Kiếp này chẳng gập nữa thì liều,
Những chắc trăm năm há bấy nhiêu ?
(…) Chén thề thuở nọ tay còn dính,
Món tóc thời xưa cánh vẫn đeo.
Ðược lứa tài tình cho xứng đáng,
Nghìn muôn non nước cũng tìm theo.

Câu cuối nói lên sự quyết tâm, chí tình của Xuân Hương.

2 – Tình của Tốn Phong đối với Xuân Hương

Tốn Phong luôn luôn tán tụng sắc đẹp và văn tài của Xuân Hương :

Trên đàn thơ xuất hiện một vị thần thơ,
(…) Gập người ngờ là tiên nữ gửi xuống trần

(Bài số 12, theo cách đánh số của T.T.Mại)

song Tốn Phong chỉ nhắc đến tình giao du, xướng họa :

Tựa :”Tình cờ mới gập lần đầu mà thành đôi bạn thân thiết… Tôi phải xuôi ngược vào Nam ra Bắc không thể cùng nhau xướng họa

Bài số 11 :”Gập người ngờ là có mối duyên bút mực từ xưa”

Còn duyên tình ? Chỉ thấy Tốn Phong than :

Duyên lạ mây mưa phó mặc hồn mộng,
Ðừng nói nhớ nhau với biết nhau
Ðồng tâm chỉ thấy vị ấm chén rượu. (Bài số 18)

Ở đây cũng như với họ Nguyễn, họ Trần, hễ nói tới “tình” thì ta lại gập chữ “mộng”.

Vì hiếm tài liệu chính xác về Xuân Hương nên ta phải căn cứ vào bài “Tựa” của Tốn Phong tuy nhiên bài này cũng có chỗ không ổn : Tốn Phong cho biết trong bài “Tựa” rằng hai người quen nhau từ “Xuân Ðinh Mão” (1807), đến “Xuân Giáp Tuất” (1814) thì gập lại, tính ra phải là 7 năm, thế mà Tốn Phong nhiều lần nói rõ là chỉ có “6 năm” :

Bài số 28 :

Từ lúc chia tay người mỗi ngả,
Tình khách cũng đã sáu năm tới nay.

Bài số 22 :

Cánh bèo gập nhau sáu năm về trước.

Tốn Phong nhớ nhầm hay… không biết làm tính ?

D – MAI SƠN PHỦ

Trong LHK ít nhất cũng có tới ba bài Xuân Hương viết về Mai Sơn Phủ nhưng không có thơ của Mai Sơn Phủ nên ta chỉ có thể căn cứ vào thơ của Xuân Hương để phỏng đoán.

Chắc Mai Sơn Phủ cũng cùng quê với nữ sĩ vì trong bài “Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” (= Kể ý mình và trình bạn là Mai xuân Phủ) có câu :

Giấc mộng tình quê thấy tịch liêu

Trong bài “Họa Sơn Phủ chi tác”, ta thấy tình của Xuân Hương rất thiết tha :

Nước mắt trên hoa là lối cũ,
Mùi hương trong nệm cả đêm thâu.
Vắng nhau mới biết tình nhau lắm,
Này đoạn chung tình biết mấy nhau.

Song Sơn Phủ dường như lại hững hờ nên Xuân Hương nhắc nhở :

Nhớ nhung đừng lỡ hẹn sai kỳ
(…) Hai ta đều muộn nói mà chi ?

và “khuyến khích” :

Hãy nên trao gửi mối duyên đi,
Lòng son ai n” phụ giai kỳ ?

Xem ra, với Mai Sơn Phủ, cũng vẫn chỉ là “giấc mộng tình quê” mà thôi.

o O o

Vì không được đọc những bài thơ liên quan đến Thanh Liên, Chí Hiên, Thạch Ðình vv. nên tôi chỉ có thể bàn về tình duyên của tác giả LHK qua Nguyễn Hầu, Trần Hầu, Tốn Phong Thị, Mai Sơn Phủ. Tuy với ai Xuân Hương cũng tỏ ra khăng khít nhưng đối phương, nếu có thơ xướng họa, chỉ thấy mập mờ nói đến “mộng”.

Hơn nữa, khó có thể tin rằng một người phụ nữ “nghiêm chỉnh”, “biết dừng lại trên lễ nghĩa” (như Tốn Phong viết trong bài “Tựa”) lại có thể cùng một thời gian “thành thật gắn bó” với ít ra là hai, ba người : Ong H.X. Hãn cho là khoảng 1813/4, Xuân Hương nối lại tình xưa sau bẩy năm xa cách với Tốn Phong khi ông này quay lại Thăng-long. Cũng trong thời gian ấy, Xuân Hương viết bài “Cảm cựu…” bầy tỏ “muôn nghìn nỗi nhớ nhung” với Nguyễn Hầu và trách người tình để mình “năm canh chiếc bóng chong”. Ðấy là chưa kể ông H.X.Hãn còn cho là lúc ấy Trần Phúc Hiển vừa được thăng chức Tham hiệp Yên-quảng, trên đường đi nhậm chức, dong thuyền qua Thăng-long có ghé thăm và hứa hẹn sẽ cưới Xuân Hương (37).

Ðiều khó hiểu là Xuân Hương không những gắn bó với mấy người cùng một lúc mà còn không ngại ngùng đem những bài thơ bộc lộ tình yêu khăng khít của mình với những người khác cho Tốn Phong đọc và nhờ viết cả bài “Tựa” mà không sợ Tốn Phong ghen. Thói thường, người ta dẫu có “ăn vụng” thì cũng tìm cách “giấu giếm”. Cho nên tôi nghĩ rất có thể Xuân Hương chỉ coi những “mối tình” này là cái cớ để làm “văn chơi”, hơi cường điệu một chút, chứ sự thật không có tình ý gì cả. Bởi không có tình ý nên mới không ngại ngùng đưa cho Tốn Phong đọc, biết rằng Tốn Phong sẽ hiểu. Quả nhiên ta thấy Tốn Phong viết trong bài “Tựa” :

“Thoạt đầu tôi hết sức kinh ngạc, lạ lùng (vì bất ngờ khám phá ra Xuân Hương còn thắm thiết với nhiều người khác ngoài mình ra) rồi dần dần càng đọc càng thấy lòng thư thái (vì đã hiểu đây chỉ là “văn chơi”, không phải sự thực) trở nên vui thú, khoái trá (bây giờ Tốn Phong mới thực sự thưởng thức văn tài của Xuân Hương)”.

Nếu không thế thì vì sao thoạt mới đọc LHK Tốn Phong lại “hết sức kinh ngạc, lạ lùng” ? Không thể nói “kinh ngạc” vì thấy thơ Xuân Hương quá hay, Tốn Phong đã xướng họa nhiều lần với Xuân Hương còn lạ gì tài của vị “thần thơ” này ? Rồi tại sao lại “dần dần càng đọc càng thấy lòng thư thái”, cái gì đã khiến lòng Tốn Phong “không thư thái” trước đó ?

Mới đọc thoáng, tưởng như tình duyên của tác giả LHK cũng trắc trở như tình duyên của tác giả TTT, nhưng xét kỹ thì có lẽ không phải, “duyên” trong LHK chỉ là thứ “duyên bút mực” còn “tình duyên” thực thì lại không thấy Xuân Hương viết rõ, chỉ có thể đoán qua Tốn Phong, bài số 18 :

Nhà Nguyệt bây giờ vui bạn phượng

chứng tỏ khi Tốn Phong quay lại thì dường như Xuân Hương đã kết duyên với người khác, mà lại là người xứng ý nên mới “vui bạn phượng”.

Chuyện Xuân Hương xuất giá có thể là chuyện thực vì Trần Hầu cũng viết :

Mừng cho nàng có phận gửi thân nơi quyền quý (38).

Tuy nhiên, tất cả vẫn chỉ là phỏng đoán, vấn đề Hồ Xuân Hương và LHK còn dành cho ta nhiều nghi vấn…

Trong TTT ta không thấy có bóng dáng Tốn Phong, Trần Hầu, Nguyễn Hầu, Mai Sơn Phủ v.v., và trong LHK cũng không thấy bóng dáng của Tổng Cóc, ông Phủ Vĩnh-tường hay Chiêu Hổ. Tại sao lại có sự trùng hợp kỳ lạ như vậy ? Nếu cho là Xuân Hương về già tự ý loại bỏ những bài TTT cho là nghịch ngợm làm lúc trẻ để đối đáp với những lời trêu ghẹo của con trai cho nên trong LHK không có bóng dáng Tổng Cóc, Chiêu Hổ v.v. nhưng chẳng nhẽ dân gian cũng tự ý loại bỏ trong TTT những bài có dính dáng đến Nguyễn Du, Trần Hầu, Tốn Phong… ? Loại ra vì lẽ gì ? Huống chi văn phong của TTT và LHK khác nhau rất xa, ai cũng nhận thấy.

Ta chỉ có thể đi đến kết luận là về mặt tình duyên, cũng như về văn phong, trong hiện tình chúng ta chưa có cứ liệu chắc chắn để xác quyết tác giả Lưu Hương Ký cũng chính là tác giả những bài thơ truyền tụng ai cũng biết.

Châtenay-Malabry, tháng 9, 1998 
Thế Kỷ 21, số 115, 11/1998 
Sửa lại tháng 9, 2005

CHÚ THÍCH

1 – Tùng Thiện Vương Miên Thẩm là em vua Thiệu-Trị, nổi tiếng văn tài cùng với Tuy Lý Vương Miên Trinh. 
“Long Biên” ám chỉ Thăng-long. 
“Trúc chi từ” là một loại thơ gồm nhiều đoạn ngắn ví như những khúc cây trúc.

2 – Phần thơ chữ Hán của Tùng Thiện Vương trích theo Trần Thanh Mại, Nghiên cứu Văn học, số 3/1963. Tôi chiết trung nhiều bản dịch cốt giữ nguyên ý của tác giả.

3 – Thơ và Ðời, tr. 2, 218-39.

4 – Ngô Lãng Vân, tr. 34-5.

5 – H.X. Hãn, tr. 178.

6 – Quốc sử di biên, tr. 281.

7 – H.X. Hãn, tr. 180.

8 – ” ” , tr. 196-7, 268-70.

9 – Ðào Thái Tôn, tr. 98.

10 – H.X. Hãn, tr. 268. Lê Dư viết rằng Xuân Hương chết sau người chồng cuối cùng vài năm.

11 – Bùi Hạnh Cẩn, tr. 10.

12 – H.X. Hãn, tr. 278_9.

13 – ” ” , tr. 288.

14 – ” ” , tr. 291.

15 – Ngược Ðường Trường Thi, tr. 104.

16 – Vũ Trung Tùy Bút, tr. 118.

17 – Ðại Nam Thực Lục, X, tr. 161.

18 – Vũ Trung Tùy Bút, tr. 5 – Liệt Truyện, I I I, tr. 474-5- Bài của Tảo Trang – Tự vị Lê văn Ðức và Lê Ngọc Trụ.

19 – Ðào Thái Tôn, tr. 117.

20 – ” ” ” , tr. 50.

21 – Ai cũng biết Nguyễn Du đỗ Tam trường, nhưng không ai biết đích xác Nguyễn Du đỗ thi Hương hay thi Hội, thi ở Thăng-long hay Sơn-nam, đỗ năm 17,18 hay19 tuổi. Gia phả họ Nguyễn ở Tiên-điền tuy chép là Nguyễn Du đỗ Tam trường thi Hương nhưng cần phải kiểm tra lại (cũng như chép Nguyễn Du đón đường vua Gia-Long để xin ra làm quan mà Ðại Nam Thực Lục lại chép Nguyễn Du bất đắc dĩ phải ra tham chính với nhà Nguyễn nên thường giữ im lặng, không bàn tâu gì, nên bị vua quở).

Theo tôi, thi Hương bắt buộc phải thi ở quê hương mình, mà quê Nguyễn Du là Nghệ-Tĩnh, còn Thăng-long chỉ là nơi Nguyễn Du sinh trưởng nên nếu là thi Hương thì Nguyễn Du bắt buộc phải về quê thi, như người cháu năm đời là Nguyễn Mai đã đỗ Cử nhân khoa 1900 ở Nghệ, chứ không có lý do gì để thi ở Sơn-nam (như gia phả chép) là quê vợ, trừ phi Nguyễn Du khai gian. Nguyễn Du cũng không được phép xin phụ thí ở Thăng-long, vì trường hợp này chỉ dành cho những người có cha đang trị nhậm ở Thăng-long, xa quê hương, phần Nguyễn Du, mồ côi cha từ năm 10 tuổi ai cũng biết, tất nhiên không được hưởng ngoại lệ này.

Căn cứ vào những tiểu sử Nguyễn Du mà tôi được đọc thì sau khi mồ côi cha, Nguyễn Du về ở với anh là Nguyễn Khản, học anh vài năm rồi về quê học Tiến-sĩ Nguyễn Hành (không phải Nguyễn Hành cháu Nguyễn Du) ít lâu sau trở lại Thăng-long và thi đỗ Tam trường. Nhiều người (như ông H.X. Hãn) khẳng định là Nguyễn Du đỗ Sinh-đồ (có người còn biên là “đỗ Tú-tài” mà quên rằng thời nhà Lê chưa ai dùng danh từ “Tú-tài”, phải đợi vua Minh-Mệnh nhà Nguyễn mới cải danh từ “Sinh đồ” ra “Tú tài”) có nghĩa là đỗ Tam trường thi Hương, chắc cho là Nguyễn Du chân trắng tất phải bắt đầu bằng thi Hương. Thực ra Nguyễn Du vì có cha làm quan to nên được hưởng lệ tập ấm, miễn thi Hương, chỉ cần đỗ một kỳ khảo hạch là được thi Hội. Ðiều này được ông Lê Xuân Giáo, từng đàm luận về Nguyễn Du với Cụ Nghè Mai, xác nhận và còn thêm Nguyễn Du đỗ Tam trường “có phân số” (tức là tuy không đỗ thi Hội nhưng bài làm không quá dở). Theo Lịch Triều Hiến Chương – Khoa Mục Chí, thì Thăng-long chỉ tổ chức thi Hội vào những năm :

1781 khi Nguyễn Du được 17 tuổi ta ;

1785 khi Nguyễn Du 21 tuổi và đã dời kinh thành lên Thái-nguyên.

Còn năm 1783, Nguyễn Du được 18 tuổi tây, 19 tuổi ta, thì không có khoa thi Hội nào cả.

Cho nên tôi kết luận rằng Nguyễn Du chỉ có thể trở lại Thăng-long để thi Hội vào năm 1781, 17 tuổi ta.

22 – Hồ Tuấn Niệm, “Bàn lại đôi điểm…”, Văn Học, số 1.

23 – H.X. Hãn, tr. 268, 249.

24 – Theo H.X. Hãn, tr. 245, thì T.T.Mại dịch là “sương đeo mái”, Hồ Tuấn Niệm sửa là “sương treo mái” cho gần với cách phát âm hơn, nhưng lại không có nghĩa, H.X.Hãn sửa lại là “sương siu mấy” (sương siu = bịn rịn) rồi Nguyễn Quảng Tuân, trong Kỷ Yếu Hội Nghiên CứuVăn Học, 1998, tr. 185-92, không đồng ý, cho là “sương gieo mãi” mới đúng.

25 – Nguyễn Du Toàn Tập, tr. 192-5.

26 – Ðào Thái Tôn, tr. 143. “Châu ta” = châu Hoan (Nghệ-an + Hà-tĩnh).

27 – ” ” ” , tr. 138.

28 – ” ” ” , tr. 144.

29 – ” ” ” , tr. 143.

30 – ” ” ” , tr. 197.

31 – ” ” ” , tr. 194.

32 – ” ” ” , tr. 199.

33 – ” ” ” , tr. 194.

34 – H.X. Hãn, tr. 274 – Thực Lục, IV, tr.190, 350.

35 – ” ” , tr. 261 – ” ” , III, tr. 317.

36 – Ð.T. Tôn, tr. 137-9.

37 – H.X. Hãn, tr. 240.

38 – Ð.T. Tôn, tr. 194.

SÁCH THAM KHẢO

BÙI HẠNH CẨN, Hồ Xuân Hương – Thơ chữ Hán, chữ Nôm và giai thoại. Hà-nội : Văn Hóa Thông Tin, 1995.

CAO XUÂN DỤC, Quốc Triều Hương Khoa Lục. Nhà xuất bản TP HCM, 1993. Bản dịch của Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn thị Lâm.

DƯƠNG THƯỢNG NGÃ, “Hồ Xuân Hương”, Làng Văn, bốn số, 1997.

ÐÀO THÁI TÔN, Thơ Hồ Xuân Hương – Từ cội nguồn vào thế tục. Hà-nội : Giáo dục, 1993 ; tái bản năm 1995.

HOA BẰNG, Hồ Xuân Hương, nhà thơ cách mạng. Saigon : Bốn Phương, 1950.

” ” (Sơn Tùng Hoàng Thúc Trâm), Quốc văn thời Tây Sơn.Saigon : Vĩnh Bảo, 1950.

HOÀNG XUÂN, LỮ  HUY NGUYÊN, Hồ Xuân Hương – Thơ và Ðời. Hà-nội : Văn Học, 1995.

HOÀNG XUÂN HÃN, Hồ Xuân Hương – Thiên Tinh Sử, Hà-nội : Văn Học, 1995.

Bản này so với bản chính in trong TS Khoa Học Xã Hội, Paris (số 12, 1/1986) có nhiều chi tiết sai nhưng riêng đối với bài “Rút nhầm tơ duyên…” thì những sai lầm đó không có ảnh hưởng gì.

HỒ TUẤN NIỆM, “Bàn góp về nguồn gốc giai cấp của Hồ Xuân Hương”, Nghiên cứu Văn Sử Ðịa, số 25, 2/1975.

” ” ” “Bàn lại đôi điểm về Tiểu sử Hồ Xuân Hương”,Văn Học, số 1, 1/2-1972.

” ” ” “Chung quanh vấn đề Tiểu sử của Hồ Xuân Hương”, Nghiên Cứu Lịch Sử, số 152, 9&10 / 1973.

LÊ TRÍ VIỀN chủ biên, LÊ XUÂN LÍT, NGUYỀN ÐỨC QUY”N, Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương. Sở Giáo-dục Nghĩa-bình, 1987.

LÊ XUÂN GIÁO, “Thân thế, Sự nghiệp và Tâm tình của Nguyễn Du tiên sinh”,Tập sanVăn Hiến – Tưởng niệm Ðại thi hào Nguyễn Du. Hoa-kỳ, Los Angeles, 1978 ?

MAI QUỐC LIÊN, NGUYỀN QUẢNG TUÂN, NGÔ LINH NGỌC, LÊ THU YẾN, Nguyễn Du Toàn Tập – Thơ chữ Hán. Hà-nội : Văn Học, 1996.

NGÔ LÃNG VÂN, Hồ Xuân Hương Toàn Tập. Saigon : Sống Mới, 1971 ; tái bản ở Mỹ, không đề năm.

NGÔ THỜI CHÍ, Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Bản dịch của Ngô Tất Tố. Saigon : Phong trào Văn hóa tái bản năm 1969 ; tái bản ở Mỹ.

NGUYỄN LỘC, Thơ Hồ Xuân Hương. Hà-nội : Văn Học, 1982.

NGUYỀN HỮU NHÀN, “Hồ Xuân Hương và Tổng Cóc (Phóng sự điền dã)”, Hồ Xuân Hương – Thơ và Ðời, tr. 218-39.

NGUYỄN TRIỆU LUẬT, Ngược Ðường Trường Thi. Hà-nội : Tân Dân, 1939 ; Saigon : Bốn Phương tái bản năm 1957 ; tái bản ở Mỹ.

PHẠM ÐÌNH HỔ, Vũ Trung Tùy Bút. Bản dịch của Ðông Châu Nguyễn Hữu Tiến. Paris : Ðông Nam Á tái bản.

PHAN HUY CHÚ, Lịch Triều Hiến Chương – Khoa Mục Chí. Hà-nội : Sử Học, 1961. Tổ Biên dịch, Viện Sử học Việt-Nam.

PHAN THÚC TRỰC, Quốc Sử Di Biên, tập Thượng. Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa, 1973. Bản dịch của Lê Xuân Giáo.

PHƯƠNG TRI, “Tài liệu về Hồ Xuân Hương trên đất Nam hà”, Tạp chí Văn Học, số 3, 1974.

TẢO TRANG, “Chiêu Hổ và Phạm Ðình Hổ”, TS Nghiên Cứu Văn Học, số 3, 1962. 
Ðào Thái Tôn in lại trong Thơ Hồ Xuân Hương…, tr. 255-64.

TRẦN BÍCH SAN, “Xuân đường đàm thoại”, 1869. Trần Tường phát hiện và công bố trên Tạp chí Văn Học, số 3, 1974, dưới nhan đề “Một số tư liệu mới tìm thấy về Hồ Xuân Hương”.

TRẦN THANH MI, “Phải chăng Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ chữ Hán ?”, Nghiên Cứu Văn Học, số 3/1963.

” ” ” “Thử bàn lại vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương”, Nghiên Cứu Văn Học, số 4/1964.

” ” ” “Trở lại vấn đề Hồ Xuân Hương”, Nghiên Cứu Văn Học, số 10/1964.

” ” ” “Bản Lưu Hương Ký và lai lịch phát hiện nó”, Nghiên Cứu Văn Học, số 11/1964.

(Theo Nguyễn Thị Chân Quỳnh)