Một trăm năm về trước, khi nhà văn Nga Lev Nikolaevich Tolstoi (1828-1910) qua đời trong niềm thương tiếc của nhiều triệu con người trên khắp mọi châu lục, công luận thế giới, đánh giá sự nghiệp của ông, chúng khẩu đồng từ đặt tên tuổi ông lên cạnh không chỉ Homère, Shakespeare, Goethe mà còn Phật Đà, Kitô, Lüther. Một trong những nghệ sĩ ngôn từ lớn nhất của loài người và đồng thời một nhà cải cách tôn giáo đã sáng lập một học thuyết tôn giáo mới cũng dành cho toàn thể loài người, không phân biệt dân tộc, quốc gia, đẳng cấp xã hội như đạo Phật và đạo Kitô.
Những định danh như thế, tưởng chừng xốc nổi và hời hợt, chỉ dựa trên trực giác và liên tưởng và còn xa mới bao quát được hết các mặt phức tạp và các đặc điểm hệ trọng trong cái hiện tượng vô tiền khoáng hậu mang tên Lev Tolstoi, xem ra lại thâu tóm được bản chất, tầm vóc và ý nghĩa của hiện tượng ấy tốt hơn rất nhiều khảo luận, chuyên luận, luận văn về Tolstoi mà ngày nay đã không thể nào thống kê được. Chúng cũng tiên lượng được khá chính xác cái số phận bất an, ba chìm bảy nổi và chưa biết hồi kết mà di sản của Tolstoi, với học thuyết tôn giáo – đạo đức của ông, phải chịu đựng trong thế giới ngày nay.
Như mọi người đều biết, Tolstoi xuất hiện trên trường quốc tế như là nhà chính luận và nhà truyền giáo sau khi Tolstoi – nghệ sĩ đã giành được nơi đây vinh quang chói lọi. Rõ ràng, đây là một hậu thuẫn, một tiền đề thuận lợi để thế giới lắng nghe tiếng nói của ông. Nhưng nếu mà nhà tư tưởng Tolstoi không có thực lực thì tiếng nói ấy đã mau chóng chìm lẫn trong đại dương đa thanh đến hỗn độn của những tư trào, những học thuyết, những đảng phái tranh giành quyết liệt ảnh hưởng đến trái tim, khối óc con người trong bối cảnh thế giới cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.
Nhưng không như Gogol ở Nga và vượt xa Hugo và Zola ở Pháp, tiếng nói của Tolstoi – nhà hoạt động xã hội đã mau chóng thu lượm được sức mạnh thu phục nhân tâm ở trong và ngoài nước Nga, khiến những tử thù của ông, nắm trong tay quyền lực nhà nước và quyền lực tôn giáo, trong vòng ba thập niên lúc nào cũng ngay ngáy lo sợ. Được lưu truyền rộng rãi nhận xét của chủ nhiệm một tuần báo chính trị – xã hội có uy tín ở Nga thời ấy (A. Suvorin): “Ở nước chúng ta có hai Sa hoàng: Nikolai đệ Nhị và Tolstoi. Tolstoi đang làm lung lay ngai vàng của Nikolai, mà Nikolai thì lại không làm gì được với Tolstoi”.
Nhưng đây, một phát biểu nhìn nhận vai trò, ý nghĩa của Tolstoi từ một góc độ hoàn toàn khác. Năm 1908, trong dịp thế giới kỷ niệm 80 năm sinh Tolstoi, Alexandre Blok, một nhà thơ trẻ, sáng tác theo khuynh hướng mới, tuyệt không thể hi vọng được Tolstoi khen ngợi, đã đăng trên báo bài viết ngắn mang tên “Mặt trời bên trên nước Nga”, với những dòng kết như sau: “Chừng nào Tolstoi còn sống, còn đi theo luống cày sau cài cày, sau con ngựa trắng của mình – thì còn buổi sáng đầy sương, còn mát rượi, còn không gì đáng sợ, ma quỷ còn say giấc – và đội ơn Chúa! Tolstoi đang đều bước – đó là mặt trời đang lên cao. Nhưng nếu mặt trời lặn, nếu Tolstoi chết – thì cái gì sẽ đến?”
Một thụ cảm, một nhận thức như vậy về Tolstoi – như là người thầy chung của nhân loại, như là hiện thân của lương tâm không ngơi nghỉ và không thể mua chuộc của loài người – là phổ biến thời ấy, nó đã biến Yasnaya Polyana, điền trang của nhà văn, thành điểm hành hương của hàng trăm khách thập phương và điểm đến của hàng vạn bức thư từ nhiều miền đất gần xa, mà trong đó những người viết cho Tolstoi, đồng tộc lẫn ngoại tộc, hỏi ý kiến của ông, đề nghị ông phát biểu về nhiều vấn đề của đời sống rất nhiều khi không liên quan gì đến văn chương, nghệ thuật.
Trong những bức thư như thế, mà Tolstoi đã trả lời, được chọn và đưa vào sách này không chỉ thư của các văn sĩ châu Âu đã hoặc sẽ đoạt giải Nobel – Henryk Sienkiewicz, Bernard Shaw, Romain Rolland, mà còn của một luật sư Ấn Độ chưa được mấy người biết đến, đang sống ở Nam Phi và lãnh đạo cuộc đấu tranh phi bạo lực dành các quyền công dân của một cộng đồng thiểu số người Ấn ở vùng này – người mai sau sẽ trở thành lãnh tụ tinh thần của dân tộc Ấn Độ và được cả thế giới gọi là Mahatma (Thánh) Gandhi – từ trẻ thấm nhuần những tư tưởng tôn giáo – đạo đức của Tolstoi, Gandhi mong mỏi được nghe thấy từ Tolstoi lời cổ vũ cho phương pháp đấu tranh mà ông đã chọn lựa, và ông đã nghe thấy. Cũng thuộc số người đã trao đổi thư từ với Tolstoi có hai nữ sinh Mỹ da màu Lizzie Walker và Martha Tyler ở một thị trấn hẻo lánh của bang Indiana – họ yêu cầu Tolstoi cất tiếng lên án những tội ác của người da trắng hà hiếp người da đen trên quê hương họ, và Tolstoi đã cất tiếng phỉ nhổ những tội ác ấy, đồng thời khuyến dụ những người bị áp bức nên hành xử thế nào với những kẻ áp bức họ…
Nhưng rồi tiếng nói cương trực, vang dội toàn cầu của Tolstoi im bặt vĩnh viễn, song thế sự mà tiếng nói ấy thực ra chưa tác động được đến, vẫn tiếp diễn dường như theo kịch bản đã được duyệt trước. Năm năm sau khi ông qua đời, giữa khói lửa của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, mà ngay Tolstoi, với nhạy cảm đặc biệt của ông với những biểu hiện của chủ nghĩa quân phiệt, của chạy đua võ trang và chuẩn bị chiến tranh, cũng không tiên đoán được, nhà văn Nga D. Merezhkovski, bình luận bộ nhật ký của Tolstoi vừa được in, chua chát viết: “Người mới đây còn là thủ lĩnh tư tưởng của chúng ta, Lev Tolstoi, tuồng như bỗng dưng đánh mất hết quyền lực của mình – tuồng như bỗng dưng toàn bộ trở nên không đúng lúc, không cần thiết, không hiện đại, không hợp thời; chúng ta không biết phải làm gì với ông, cũng như, thực tình mà nói, với tất cả các hiền giả, các bậc thầy, các nhà tiên tri. Hình như chưa bao giờ lại lộ rõ như hiện nay sự bất lực của tinh thần con người trước sức mạnh vô hồn của vật chất: cho dù những con người của tinh thần có nói gì, có nghĩ gì, có cảm thấy và có làm gì – bên ngoài họ sẽ không có gì đổi thay”.
Sau thế chiến thứ nhất là thế chiến thứ hai, còn tàn khốc và dã man hơn, với những thảm cảnh và tội ác khủng khiếp hơn rất nhiều so với những gì mà ngòi bút Tolstoi đã khắc họa, và giữa hai cuộc đại chiến ấy trên tổ quốc của Tolstoi đã diễn ra toàn những thứ mà sinh thời Tolstoi đã không mong muốn tí nào, đã không biết mệt mỏi cảnh báo, ngăn ngừa đồng bào mình – cách mạng, nội chiến, rồi một chính thể chuyên chế mới, còn bóp nghẹt tự do của con người hơn chế độ cũ. Dưới chính thể mới ấy người ta đã đối xử với Tolstoi cũng không như ông mong muốn: đề cao đến mức tuyệt đối hóa sáng tác văn học của ông, biến nó gần như thành một thứ khuôn vàng thước ngọc cho mọi người cầm bút trong hiện tại và tương lai nhưng lại hạ thấp cũng hết mức Tolstoi – nhà tư tưởng, xem cái phần ấy trong di sản của ông là vĩnh viễn thuộc về quá khứ và không cần thiết tí nào cho công cuộc xây dựng xã hội mới, con người mới.
Những trước tác quan trọng nhất của Tolstoi – nhà tư tưởng trên thực tế trở thành bất cập đối với công chúng độc giả, đồng thời những người noi theo học thuyết của Tolstoi trong xã hội bị ráo riết truy bức. Trong vòng bảy thập niên, nhà tư tưởng Tolstoi được biết đến, được nghiên cứu và quảng bá ở nước ông ít hơn ở bất cứ nước nào của phương Tây, nơi do nhiều lý do cũng thống ngự nhiều định kiến về Tolstoi và trong ý thức xã hội cũng định hình một quan niệm rập khuôn về ông như là một nhà văn kỳ tài và một triết gia yếu kém, nhưng đồng thời trong những giới học thuật vẫn tiếp tục sự nghiên cứu và kiến giải Tolstoi trong chỉnh thể sáng tác và nhân cách của ông.
Song dĩ nhiên đã không thể nói về ảnh hưởng sâu rộng của tư tưởng Tolstoi ở các nước Âu – Mỹ thế kỷ XX nơi những thần tượng mới: Nietzsche, Freud, Heidegger, Sartre, Derrida… lần lượt chiếm lĩnh tâm trí của công chúng có học, đẩy vào chỗ râm tối thậm chí ra ngoài lề của không gian văn hóa – tư tưởng, nhiều thiên tài của các thế kỷ trước. Đều bước với các nhà tư tưởng hiện đại và hậu hiện đại, không ít các văn nghệ sĩ tiên phong chủ nghĩa ở phương Tây – trái ngược với sự “phong thánh” Tolstoi – nghệ sĩ ở nước Nga Xô viết và các nước đồng minh – từ những năm 60 ra sức chối từ di sản văn chương của Tolstoi, coi nó thuộc về một giai đoạn đã vĩnh viễn bị vượt qua của nghệ thuật ngôn từ…
Trong những thập kỷ đầy khó khăn ấy, uy tín và ảnh hưởng của Tolstoi vừa như một nghệ sĩ vừa như một tư tưởng gia, may thay, được duy trì mà không phải chịu đựng những thăng trầm khiên cưỡng ở phương Đông – khu vực thế giới mà Tolstoi sinh thời quan tâm đến thế và gửi gắm nhiều hy vọng đến thế – ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Sri Lanca và đặc biệt Ấn Độ. Nước Ấn Độ độc lập, ngưỡng kính và tự hào về thánh Gandhi của mình, một cách tự nhiên, ngưỡng kính cả Tolstoi mà Gandhi luôn luôn coi là người thầy tinh thần của ông, nâng niu trân trọng di sản tư tưởng của Tolstoi, tiếp thụ sáng tạo và phát huy tác dụng của nó. Có thể tìm thấy không ít tư tưởng đồng vọng với Tolstoi trong những trước tác của nhà triết học Ấn Độ lỗi lạc (từng làm nguyên thủ của nước này) Radhakrishnan cũng như ở Nhật Bản của nhà hoạt động tôn giáo nổi tiếng Ikeda. Đúng như Romain Rolland đã viết từ những năm 20 thế kỷ trước, chính Tolstoi – nhà tư tưởng đã trở thành một trong những cầu nối đầu tiên chuẩn bị cho cuộc hội nhập tinh thần Đông – Tây mà những bộ óc ưu thời mẫn thế của thế giới này từ lâu mơ ước.
Một sự kiện giàu ý nghĩa và hậu quả trong lịch sử đương đại của thế giới phương Tây mang rõ nét ảnh hưởng của tư tưởng phương Đông lại liên quan không tách rời với học thuyết tôn giáo – đạo đức của Tolstoi – đó là phong trào đấu tranh phi bạo lực nhằm xóa bỏ tệ phân biệt chủng tộc của những người da đen ở Mỹ vào những năm 60 thế kỷ trước dưới sự lãnh đạo của Martin Luther King – người đã có ý thức học tập tư tưởng và phương pháp hành động của Gandhi và vô giác hay tự giác đã thực hiện những lời khuyên xưa kia của Tolstoi, bày tỏ trong thư gửi hai nữ sinh da màu ở bang Indiana. Và những công dân Hoa Kỳ có học thời nay, khi bỏ phiếu bầu một người da màu làm nguyên thủ quốc gia của mình, chắc hẳn tưởng nhớ tới cả Tolstoi trong số những tác nhân của những biến đổi đáng mừng trong đời sống của nước họ. Và không biết là một trùng hợp ngẫu nhiên hay báo hiệu, nhưng cũng ở nước Mỹ ngày nay, nhà văn Tolstoi dẫn đầu các tác giả cổ điển về số lượng sách in. Nhưng phải chăng Tolstoi sẽ thỏa mãn với sự có mặt như thế của mình trong đời sống của nước Mỹ? Thế còn chiến tranh ở Afganistan, ở Irak và chính sách siêu cường quốc mà đa số nhân dân Mỹ ủng hộ, nhưng Tolstoi thì chắc chắn sẽ lên án?
Nếu nói về nước Nga, hiện đang kinh qua một giai đoạn cực kỳ khó khăn trong lịch sử của mình, thì rõ ràng thấy được “sự trở về” của Tolstoi – nhà tư tưởng, bắt đầu từ cuối thập niên 80 của thế kỷ trước. Sự trở về ấy (đáng tiếc nó đi kèm với sự nguội lạnh nhất định và chắc là nhất thời của công chúng đối với Tolstoi – nghệ sĩ) sẽ mang lại những gì cho dân tộc Nga, văn hóa Nga – chỉ tương lai mới trả lời được câu hỏi ấy. Nhưng có cái tương lai dài lâu ấy không cho nước Nga và cả thế giới – câu hỏi ấy to, lớn hơn rất nhiều và hệ trọng hơn đến mức không thể so sánh, đang còn để ngỏ, gây lo âu khắc khoải cho hàng tỉ người trên hành tinh này. Trong khi một triết gia Nga đương đại khẳng định: loài người còn phải lớn lên hơn nữa thì mới thực sự hiểu được Tolstoi, một triết gia khác in hẳn một cuốn sách dày cộp mang tên “Tồn tại hay không tồn tại… nhân loại?” Hóa ra, vận mệnh của Tolstoi gắn không tách rời với vận mệnh của nền văn minh loài người, mà rất nhiều tai họa, nhiều vấn nạn toàn cầu của nó đã được ông tiên lượng hơn một thế kỷ trước, và cũng Tolstoi ấy đã kiên trì đề xướng một con đường phát triển (“đường sống”, như ông nói) đã bị lịch sử nhân loại gạt bỏ. Vậy chân lý thuộc về ai? Rõ ràng không thuộc về, hay chỉ một phần thuộc về nhân loại. Thế thì có phần chân lý nào không thuộc về Lev Tolstoi? Đặt câu hỏi này, chúng ta tâm niệm lời của Tolstoi khẩn khoản đề nghị mọi độc giả “không vội vã và bực bội mà hãy hiểu và bàn thảo những gì tôi phát biểu, và trong trường hợp không đồng tình thì không với sự khinh bỉ và căm ghét, mà với thái độ tiếc thương và ân cần uốn nắn cho tôi; còn trong trường hợp đồng tình thì nhớ rằng nếu tôi nói ra chân lý, thì chân lý ấy không phải của tôi, mà của Thượng Đế; và rằng chỉ ngẫu nhiên một phần chân lý ấy đã đi qua tôi, hệt như nó đi qua từng người trong chúng ta, khi chúng ta nhận thức và truyền đạt nó”.
*
* *
Nếu tìm người khai mào cho khuynh hướng, thậm chí truyền thống nghiệt ngã ái mộ Tolstoi – nghệ sĩ và không chấp nhận Tolstoi – nhà tư tưởng, thì người ấy chắc là Ivan Sergeevich Turgenev (1818-1883). Nhà văn hào này, nhiều hơn Tolstoi mười tuổi và đã nâng đỡ cổ vũ những bước đi đầu tiên của ông trong văn học, suốt ba thập niên quan hệ một mực khuyến dụ Tolstoi cống hiến toàn bộ cuộc đời, tất cả mọi sức lực phong phú được trời phú bẩm cho sự nghiệp văn chương và không làm gì khác ngoài sáng tác văn học. Ngoài sự không chia sẻ nhiều tư tưởng tâm huyết của Tolstoi, chắc Turgenev còn đinh ninh rằng tài văn như ở Tolstoi thì có một không hai, chứ còn những tư tưởng mà Tolstoi trực tiếp phát biểu, nhiều người khác cũng có thể nói ra, mà còn thuyết phục hơn, hay hơn, “có nghề” hơn.
Cho nên ông cứ khuyên hoài Tolstoi hãy là văn sĩ chuyên nghiệp và một tháng trước khi qua đời còn khẩn thiết kêu gọi người bạn của mình, “nhà văn vĩ đại của đất Nga”, trở về với hoạt động văn học, chớ sa lầy trong hoạt động chính luận và truyền giáo. Vào cuối năm 1857, hồi hai người còn chơi thân với nhau, không hài lòng nhận thấy ở người bạn trẻ của mình một sự thiếu tập trung trong các mối quan tâm, một sự thiếu ý thức về thiên chức đích thực của mình, Turgenev viết cho Tolstoi: “… dù có nát óc đến đâu, tôi vẫn không thể nghĩ ra được, anh là cái gì nếu không phải là người viết văn: một sĩ quan? một điền chủ? một triết gia? nhà sáng lập một học thuyết tôn giáo mới? một viên chức? một doanh nhân? Xin anh dẫn dắt tôi ra khỏi sự khó khăn này và nói cho biết, giả định nào là đúng.” Turgenev hỏi nửa đùa nửa thật mà không biết rằng ông đã nói trúng “tim đen” của Tolstoi. Trong nhật ký của Tolstoi, vào những ngày đầu tháng Ba 1855, ta đọc: “Hôm qua, câu chuyện về thần thánh và đức tin đã khơi lên trong tôi một ý tưởng vĩ đại, to lớn vô cùng mà tôi cảm thấy mình có thể cống hiến cả đời cho sự thực hiện nó. Ý tưởng ấy là – sáng lập một tôn giáo mới, phù hợp với sự phát triển của nhân loại, tôn giáo của Kitô, nhưng được tẩy rửa khỏi mọi thứ mê tín và bí ẩn, một tôn giáo thực tiễn, không hứa hẹn một hạnh phúc mai sau, mà cho hạnh phúc trên cõi trần…”.
Trong nhật ký của mình, được viết suốt đời, Tolstoi sẽ không bao giờ dùng những từ ngữ to tát và long trọng như thế khi ông nói về những ý đồ sáng tác hay những thành phẩm văn chương của mình, cho dù đó có là “Chiến tranh và hòa bình”, hay “Anna Karenina”, hay “Phục sinh”. Và đối chiếu những dòng chữ thời hoa niên này với những gì mà nhà thuyết giáo và thầy đời Tolstoi sẽ viết và nói sau này, không thể không nhận ra rằng, thứ nhất, hạt nhân của toàn bộ học thuyết đạo đức – tôn giáo của Tolstoi đã được gói gọn ở đây, và thứ hai, như một con người, Tolstoi đã trung thành với mình, với những khát vọng thời trai trẻ của mình – điều mà ông không ngớt căn dặn các thế hệ trẻ bước vào đời muộn hơn ông.
Tolstoi đã trung thành với mình, đã cố gắng đến cùng thực hiện những gì mà ông ấp ủ từ thời niên thiếu, và chỉ có một, chứ không hai Tolstoi cần được tri ngộ như là một thực thể và chính thể, cho dù việc này có khó khăn đến đâu. Nếu quả là nhân loại còn phải trưởng thành để tiếp nhận thế giới tư tưởng của Tolstoi thì cũng rất có thể là thế giới nghệ thuật của Tolstoi cũng đang chờ đợi một sự phát hiện lại, nhận chân lại, như thế. Giữa di sản văn học và di sản tư tưởng của Tolstoi có quan hệ hữu cơ, không thể phá vỡ và không thể coi nhẹ, chứ chưa nói làm lơ, và sẽ là kém bổ ích chọn nghiên cứu chỉ Tolstoi – nghệ sĩ, hoặc chỉ Tolstoi – nhà tư tưởng. Sự thông hiểu tư tưởng của Tolstoi giúp sức cho sự thấu thị thế giới nghệ thuật của ông, và ngược lại, trực giác nghệ sĩ của ông giúp ta giải thích nhiều tư tưởng anh minh của ông mà chỉ bây giờ, một thế kỷ sau khi ông qua đời, mới được công nhận. Xin đơn cử hai thí dụ, thí dụ thứ nhất lấy từ tiểu thuyết – sử thi “Chiến tranh và hòa bình” (tập 3, phần 2, chương XXIV – XXV).
Pier Bezukhov và Andrei Bolkonski, hai nhân vật chính của tiểu thuyết, gặp nhau trên cánh đồng Borodino trong đêm trước ngày diễn ra trận đánh lịch sử giữa quân đội Nga và đoàn quân của Napoléon tấn công nước Nga. Pier chứng kiến tinh thần chiến đấu và quyết tâm chiến thắng toát ra từ mọi lời nói và cử chỉ của các binh sĩ Nga, đặc biệt từ người bạn tâm giao của mình – công tước Andrei. Tác giả viết về não trạng của Pier: “Câu hỏi cứ làm cho chàng bận tâm hoài từ cái lúc xuống dốc Mozhaisk, bây giờ thì chàng thấy được giải đáp thật minh bạch, dứt khoát. Bây giờ thì chàng đã hiểu được hết ý nghĩa của cuộc chiến tranh này và của trận đánh sắp diễn ra. Tất cả những gì chàng thấy hôm đó, những khuôn mặt nghiêm nghị và trầm ngâm đã thoáng qua trước mắt chàng, bây giờ như được một ánh sáng mới rọi vào. Chàng đã hiểu được cái nhiệt khí âm ỷ, như các nhà vật lý học nói, của tinh thần ái quốc đang sống trong tất cả những người ấy, nó đã giải thích cho chàng vì sao họ lại sẵn sàng đón cái chết một cách bình thản gần như nhẹ dạ như vậy”.
Andrei Bolkonski giải thích cho Pier: đây là cuộc chiến tranh giữ nước giữ nhà, vì thế nó nhất định thắng lợi: “Mười vạn quân Nga sáp chiến với mười vạn quân Pháp, đạo quân nào chiến đấu hăng hái hơn, không ngại hi sinh hơn thì đạo quân ấy sẽ thắng. Muốn xảy ra gì thì gì, ngày mai chúng ta sẽ chiến thắng. Phải, muốn gì thì gì, ngày mai chúng ta cũng sẽ thắng.” Tất cả đều hòa điệu, đều ăn khớp, hào khí của sử thi là rõ ràng. Nhưng hai trang sau, về cuối cuộc đối thoại, cũng nhân vật ấy lại nói khác hẳn: “… ngày mai, người ta sẽ mặt giáp mặt để chém giết nhau, sẽ tàn sát và làm tàn phế hàng vạn người, rồi sau đó sẽ làm lễ tạ ơn Chúa, nhờ Chúa phù hộ mà họ đã giết được thật nhiều người (mà con số đó họ sẽ còn thổi phồng lên), và sẽ tuyên bố chiến thắng, cho rằng càng giết được nhiều người thì công trạng càng to. Không biết Chúa ở trên ấy nhìn và nghe thấy thế nào!…”.
Tại sao lại có sự tiền hậu bất nhất như thế, và quan trọng hơn sự tuồng như tự phủ định ấy, sự cào bằng, đổ đồng người bị xâm lược với kẻ xâm lược, sự hạ thấp cái vinh quang của người chiến thắng trong cuộc chiến đấu rõ ràng chính nghĩa? Lẽ nào tác giả tiểu thuyết không ý thức được rằng, đặt những lời như thế vào miệng Andrei Bolkonski, ông làm điều trái ngược với những gì mà người đọc đang chờ tìm thấy ở tiểu thuyết của ông? Còn đâu âm hưởng của sử thi anh hùng, sử thi đánh giặc cứu nước? Còn đâu cấu trúc thuần toàn, nhất khối của nhân vật sử thi, hấp dẫn đến thế đối với độc giả đại chúng? Tất cả trở nên rối rắm, khó hiểu, khó đồng cảm. Nhưng tất cả đều nằm trong ý đồ của tác giả.
Trong ý đồ ấy không có sự tiền hậu bất nhất, mà có sự kết hợp từ đầu đến cuối hai điểm nhìn, hay nói đúng hơn hai nhãn thức, một nhãn thức hạn hẹp hơn, tạm gọi là nhãn thức “địa giới”, tiếp giáp phức tạp với một nhãn thức khác, cao rộng hơn, tạm gọi là nhãn thức “thiên giới”, nó không phủ định, nhưng chỉ ra tính tương đối và ước lệ của nhãn thức địa giới. Andrei Bolkonski, cái tôi thứ hai của tác giả, trong phạm vi một cuộc đối thoại tâm tình chuyển dịch từ nhãn thức này sang nhãn thức kia mà không cảm thấy một tí mâu thuẫn nào giữa mình với mình, bởi vì nhân vật này thường xuyên làm như thế trong suốt vận trình của tiểu thuyết.
Ngay từ đầu đã là thế: trong trận đánh ở Austerlitz, còn đang ao ước lập chiến công, mơ tưởng đến vinh quang của Napoléon thì công tước Andrei cầm quân kỳ ngã xuống chiến trường, mở mắt ra trông thấy bầu trời cao lồng lộng và trên cái nền trời ấy hình ảnh một Napoléon chiến thắng và đắc thắng lập tức và mãi mãi trở nên bé nhỏ trong mắt chàng. Một cuộc đảo lộn tâm thức trong chớp loáng như thế có hiện thực hay không? Trường đoạn này trong tiểu thuyết được viết thật hơn đời thực. Bảy năm sau, trên cánh đồng Borodino nhân vật này lại cảm thức và phát biểu tương tự: chiến tranh giữ nước giữ nhà là việc chính nghĩa, việc đáng làm, song mọi cuộc chiến tranh, mọi sự giết người đều là tội lỗi của con người trước Thượng Đế và không được tự hào về tội lỗi ấy. Trong cuộc đối thoại này Bolkonski đã trực tiếp cầu viện đến Thượng Đế như là cấp phán xử cuối cùng (“không biết Chúa ở trên ấy nhìn và nghe thấy thế nào!”).
Hơn 20 năm sau khi hoàn thành tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình”, Tolstoi viết thiên khảo luận dài “Vương quốc của Thiên Chúa ở trong ta”, trong đó ông xác định ba kiểu nhân sinh quan: cá nhân luận, xã hội luận và thượng đế luận. Thế nào là nhân sinh quan cá nhân luận và thượng đế luận, thiết tưởng không cần giải thích, nhưng khái niệm “nhân sinh quan xã hội luận” của Tolstoi có một nội hàm đặc thù rất xác định: đó là nhân sinh quan xuất phát chỉ từ lợi ích của từng kiểu và từng cấp hợp quần (cộng đồng) người, từ gia đình đến quốc gia và liên minh quốc gia, mà giới hạn là toàn nhân loại.
Theo Tolstoi, các kiểu liên kết ấy cùng với nhân sinh quan thích ứng với chúng là những thực tại lịch sử trong những điều kiện nhất định cần thiết cho con người, nhưng do bản chất vị kỷ của chúng mà luôn luôn có sức mạnh nô dịch con người, trói buộc nó, làm tha hóa nó, che khuất khỏi mắt nó cái chân và cái thiện đích thực, nếu con người không hấp thụ và lấy làm kim chỉ nam cho mình cái nhân sinh quan”thượng đế luận”, yêu thương tất cả mọi sinh linh con người như nhau và không dành cho bất kỳ một người nào hay một hợp quần người nào một ưu đãi, một đặc quyền đặc lợi nào. Và chỉ yêu kính Thượng Đế và đoàn kết triệt để trong Thượng Đế thì loài người mới có cơ dựng xây trên trái đất một cuộc sống thiện hảo, trong ngôn ngữ tôn giáo gọi là Vương quốc của Thiên Chúa (Nước Trời).
Trở lại với tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình”, ta thấy cái nhân sinh quan “thượng đế luận” ấy tuy chưa hoàn bị và chưa được ý thức rõ ràng, song đã hiện diện trong nhãn thức của tác giả và các nhân vật mà ông yêu quý nhất. Chính cái nhãn thức được quán triệt ấy bảo đảm cho tác phẩm của ông sức sống lâu bền, điều mà không thể nói về những “tiểu thuyết – sử thi” của nhiều tác giả ở nhiều nước khác nhau, bắt chước nghệ thuật của Tolstoi nhưng xa lạ hay không hấp thụ nhiều nhuần nhuyễn nhãn thức “thượng đế luận” của ông.
Xin chuyển sang thí dụ thứ hai – đó là bài viết “Gửi đại hội Slavơ ở Sofia”, hoàn thành vào thượng tuần tháng Bảy 1910 – chỉ bốn tháng trước khi Tolstoi qua đời. Lý do của bài viết này là thư mời tham dự Đại hội của các dân tộc Slavơ được tổ chức ở Sofia, thủ đô nước Bungari mới giành được độc lập chính trị sau năm thế kỷ bị đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ đô hộ. Mặc dù trong thư mời được nhấn mạnh rằng đại hội này sẽ tuyệt không bàn đến những vấn đề chính trị mà chỉ nhằm mục đích đoàn kết và liên kết các nước và dân tộc Slavơ về mặt văn hóa – kinh tế, Tolstoi đã gửi đến đại hội một thông điệp có tính phê phán rõ rệt. Do thông điệp này ngắn gọn, xin dẫn ra dưới đây hầu như toàn văn:“Đoàn kết con người, chính sự đoàn kết mà nhân danh nó các vị tập trung lại với nhau, không những là công việc quan trọng nhất của nhân loại, mà tôi còn thấy trong sự đoàn kết ấy có cả ý nghĩa, cả mục đích và hạnh phúc cuộc sống con người. Nhưng để cho hoạt động ấy mang lại ân phúc, cần làm sao để nó được thấu hiểu trong tất cả ý nghĩa của nó, không bị hạ thấp, hạn chế hoặc xuyên tạc. Cần phải là như vậy đối với tất cả mọi hoạt động quan trọng nhất của loài người, như tôn giáo, tình yêu, sự phục vụ nhân loại, khoa học và nghệ thuật. Tất cả cho đến cùng, đến tận những kết luận cuối cùng, cho dù chúng có xa lạ hoặc khó chịu đến thế nào đi chăng nữa cho ta. Hoặc là tất cả hoặc không có gì. Chẳng thà không có gì, chứ không phải là một vài thứ, bởi vì tất cả những hoạt động vĩ đại nhất của tâm hồn con người, nếu không thực hiện đến cùng thì không những không hữu ích, không mang lại lợi ích gì, cho dù nhỏ nhoi nhất, mà còn có sức phá hủy và hơn tất cả những điều khác ngăn cản đạt tới cái đích mà chúng tưởng chừng hướng tới.
Không phải nghi ngờ gì nữa, những con người đoàn kết bao giờ cũng mạnh hơn những người chia rẽ. Gia đình mạnh hơn những cá thể. Một băng cướp bao giờ cũng mạnh hơn những tên cướp một mình. Cộng đồng mạnh hơn những cá thể riêng biệt. Một quốc gia được đoàn kết bằng lòng ái quốc mạnh hơn các sắc tộc sống tách biệt. Nhưng vấn đề là ở chỗ, ưu thế của những người đoàn kết so với những kẻ tách biệt và hậu quả không tránh khỏi của ưu thế đó, sự nô dịch hay ít nhất là sự bóc lột những người tách biệt lấy, tự nhiên gợi cho những người ấy nguyện vọng đoàn kết, thoạt đầu để chống lại bạo lực, rồi sau đó để thực hiện bạo lực.
Dĩ nhiên, khi đã gánh chịu cái ác do sự liên kết của các nhà nước Áo, Nga, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, thì các dân tộc Slavơ có nguyện vọng đoàn kết nhằm chống lại cái ác đó, nhưng khối liên kết mới đó, giả dụ nó được thành lập, tất yếu sẽ bị lôi kéo vào kiểu hoạt động y như vậy, không những để đối phó với các liên minh khác, mà còn để đàn áp và bóc lột những liên minh yếu hơn, nghèo hơn, và chống lại những cá nhân riêng biệt.
Đúng, đoàn kết là ý nghĩa, mục đích và hạnh phúc của đời sống nhân loại, nhưng mục đích và hạnh phúc ấy chỉ đạt được khi đây là sự đoàn kết toàn thể nhân loại, vì một nền tảng chung cho toàn nhân loại, chứ không phải là sự liên kết mấy nhóm nhỏ hoặc lớn của nhân loại vì những mục đích hạn chế, cục bộ. Cho dù đó là những liên kết gia đình, hay đảng cướp, hay cộng đồng, hay quốc gia, của một dân tộc hay của “liên minh thần thánh” giữa các quốc gia, những liên kết như vậy không những không trợ giúp, mà còn cản trở sự tiến bộ chân chính của loài người.
Và vì vậy để phục vụ hữu thức cho sự tiến bộ chân chính, ít nhất tôi nghĩ như thế, cần không ủng hộ tất cả những liên kết cục bộ như thế, mà phải luôn luôn chống lại chúng. Đoàn kết là chìa khóa giải phóng con người khỏi cái ác. Nhưng để chìa khóa đó thực hiện được chức năng của mình, cần đẩy nó đến cùng, đến chỗ nó phải mở ra, chứ không được để nó bị gãy và làm hỏng ổ khóa. Đoàn kết cũng cần phải như vậy, để đạt được những kết quả đại phúc đại hạnh thích hợp với nó, nó phải nhằm mục đích liên kết tất cả mọi người, vì một khởi nguyên chung cho tất cả nhân loại, được tất cả mọi người thừa nhận như nhau. Mà sự liên kết đó chỉ có thể là liên kết dựa trên cơ sở tôn giáo của đời sống, – cái cơ sở mà chỉ có nó mới đoàn kết mọi người, nhưng tiếc thay lại bị đa số những người đang lãnh đạo các dân tộc trong thời đại chúng ta cho là đã lỗi thời, không cần thiết.
Người ta sẽ bảo tôi rằng: chúng tôi thừa nhận nền tảng tôn giáo đó, nhưng không chối bỏ cả nền tảng nối kết các bộ lạc, dân tộc, quốc gia. Nhưng vấn đề là ở chỗ cái này loại trừ cái kia. Nếu thừa nhận mục đích cuộc sống nhân loại là đoàn kết toàn thế giới, mang tính tôn giáo, thì bản thân sự thừa nhận ấy phủ định mọi cơ sở đoàn kết khác và ngược lại, sự thừa nhận là cơ sở của đoàn kết yếu tố bộ lạc, dân tộc, quốc gia – ái quốc tất yếu sẽ phủ định nguyên lý tôn giáo như là nền tảng thực sự của cuộc sống nhân loại.
Tôi nghĩ, tôi hầu như tin chắc rằng những ý nghĩ mà tôi đã trình bày sẽ bị coi là bất khả thi và không đúng đắn, nhưng tôi cho rằng mình có nghĩa vụ phải nói thẳng ra điều đó với những người mà, bất chấp sự phủ định chủ nghĩa ái quốc bộ lạc và dân tộc nơi tôi, dù sao đi nữa cũng gần gũi với tôi hơn những người thuộc dân tộc khác. Nói một điều to lớn hơn nữa, vứt bỏ những suy tính về việc, căn cứ vào những lời nói này của tôi người ta có thể cáo buộc tôi thiếu nhất quán và mâu thuẫn với chính mình, tôi xin nói rằng điều đặc biệt đã khiến tôi phải nói ra những gì mà tôi vừa trình bày, niềm tin của tôi vào việc cái nền tảng tôn giáo của sự đoàn kết đại đồng ấy, mà chỉ một mình nó có thể đoàn kết ngày một nhiều người hơn và dẫn họ đến với hạnh phúc phù hợp với bản tính của họ, rằng nền tảng ấy sẽ được tất cả các dân tộc trong thế giới Ki tô giáo tiếp nhận, trước hết là các dân tộc thuộc nòi giống Slavơ”.
Bài viết này cho thấy rất rõ những đặc điểm nổi bật của cái lối suy luận, cái nếp tư duy nơi nhà tư tưởng Tolstoi. Có thể gọi nó bằng một từ – cực đoan, thể hiện ở ngay phương châm mà ông đã không ngần ngại đưa ra: “Hoặc là tất cả hoặc không có gì”. Chủ trương đoàn kết toàn nhân loại và lấy đó làm đích, Tolstoi gạt bỏ mọi hình thức liên kết trung gian, nhìn thấy ở chúng những chướng ngại vật cho sự đạt tới đích cuối cùng ấy. Gia đình, tổ quốc bị đặt lên cùng một mặt bằng với đảng cướp – cơ sở của chúng là chủ nghĩa ích kỷ vụ lợi. Tất cả các liên minh ít nhiều mang tính cục bộ, không chỉ những liên minh quốc gia – chính phủ (Tolstoi là người theo chủ nghĩa vô chính phủ triệt để) mà cả những tổ chức nay gọi là phi chính phủ, cũng đều bị coi là đi ngược lại tôn chỉ đoàn kết toàn nhân loại và bị lên án.
Chỉ cần hỏi Tolstoi: thế nhưng để đấu tranh cho sự đoàn kết toàn nhân loại ấy từng con người riêng lẻ phải dựa vào, phải tham gia ít nhất một tổ chức nào chứ? Thì ông sẽ không trả lời (thực ra ông có câu trả lời, xin được nói đến sau). Thành thử bắt bẻ Tolstoi là việc rất dễ, và biết bao người đã bắt bẻ ông, nói thẳng với ông: sự cực đoan quá khích là phản chỉ định, là không thể chấp nhận ở nhà triết học, nhà tư tưởng xã hội. Thế nhưng Tolstoi không hề sửa đổi, vẫn tiếp tục cực đoan, như ta thấy, cho đến khi từ giã cõi đời này. Tại sao lại thế? Đơn giản: cực đoan (đẩy đến cực độ) là lợi thế và lợi khí của tư duy nghệ thuật, và Tolstoi, nghệ sĩ vĩ đại, không ngần ngại sử dụng nó trong những thể loại diễn ngôn phi nghệ thuật.
Và sự lạm dụng ấy, trong trường hợp Tolstoi, lại đem đến những hiệu quả bền vững tuy không ngay lập tức. Đọc văn nghị luận của Tolstoi, rất nhiều khi ta có cảm tưởng rằng ông viết về ngày hôm nay của đất nước chúng ta, thế giới chúng ta. Cái trực giác, cái linh giác nghệ sĩ đã giúp nhà tư tưởng Tolstoi nắm bắt không sai lầm những vấn đề mới chớm nở trong xã hội thời ấy nhưng sẽ trở thành những vấn nạn của xã hội ngày nay, những ung nhọt mới nảy sinh trên cơ thể nhân loại mai sau sẽ biến thành những ổ ung thư.
Đọc lại bài “Gửi đại hội Slavơ ở Sofia” và liên hệ với thực tại của thế giới trong thế kỷ qua và ngày nay, với những khẩu hiệu đoàn kết mị giai cấp, mị nhân dân, mị dân tộc và cả mị nhân loại siêu hiệu quả, với sự lộng hành của đủ mọi kiểu liên kết, liên minh hoạt động nhân danh nào giai cấp, nào nhân dân, nào dân tộc, nào nhân loại nhưng trong thực tế lấy những lợi ích vị kỷ cục bộ của mình thay cho lợi ích của cả giai cấp, cả nhân dân, cả dân tộc, cả nhân loại, và với những tai họa toàn cầu hiện nay mà chỉ có thể khắc phục bằng sự đoàn kết thực sự của mọi người trên hành tinh này, vượt mọi rào cản của các liên minh nói trên, lẽ nào không thừa nhận sự nhìn xa thấy trước phi thường của Tolstoi, chân lý anh minh trong cái tưởng là sự cực đoan mất trí của ông?
*
* *
Ngay với một trí tuệ hùng mạnh và một lương tri nhạy sắc như ở Tolstoi, con đường đến với những chân lý anh minh ấy không thể chóng vánh, thẳng tắp và phẳng phiu, những thu lượm không thể không đi kèm với những mất mát. Với nhiều năng lực dồi dào trời cho như thế, mà từng năng lực riêng lẻ đã là quá đủ cho một đời người, Tolstoi ngoài sáng tác văn học, từ trẻ đã thử sức mình trong hoạt động quân sự, hoạt động xã hội, hoạt động giáo dục, mà trong từng hoạt động ấy ông đều thể hiện rõ nét bản sắc và bản lĩnh cá nhân của mình.
Ở đây không thể không nhắc đến một công trình thời trẻ bị bỏ dở của ông – “Đề án về cải tổ quân đội” (1855). Nó đã chứa đựng những hạt nhân của lập trường kiên định và không khoan nhượng chống chủ nghĩa quân phiệt, chống chiến tranh, chống bạo lực đặc trưng cho tư tưởng Tolstoi trong tương lai. Cái chủ nghĩa hòa bình không biết nhượng bộ của Tolstoi, cái thái độ bài bác triệt để quân đội và nghề binh nơi ông nảy sinh từ kinh nghiệm cá nhân, từ những quan sát thực tế trong mấy năm ông làm lính, rồi làm sĩ quan. Sự cưỡng bức thô bạo, sự chà đạp nhân phẩm của con người, sự biến con người thành công cụ vô hồn thực hiện mọi mệnh lệnh của cấp trên bất cứ chúng là thế nào – những tệ nạn muôn đời và phổ biến của nghề binh và giới binh sĩ mà Tolstoi đã chứng kiến tận mắt và một phần đã trải nghiệm bằng thân thể sẽ trở thành xuất phát điểm để Tolstoi quan trắc, phát lộ và kiến giải cũng những tệ nạn ấy trong xã hội loài người nói chung.
Từ nhận định bao quát về những điều kiện sống không xứng đáng với con người ấy, Tolstoi rút ra kết luận về một điều kiện không thể thiếu và tiên quyết cho cuộc sống xứng đáng – tự do. Tự do trong mọi bình diện và mối quan hệ của nó cần được xem như là một cảm hứng thường trực, tuy ẩn kín và một đối tượng tìm kiếm hàng đầu trong suốt đời hoạt động của Tolstoi. Tự do là yêu cầu và tiêu chí cơ bản trong lý thuyết về giáo dục và đào tạo của Tolstoi, được xác nhận bởi kinh nghiệm thực tiễn của ông với tư cách nhà sư phạm và người tham gia tổ chức nền giáo dục bình dân ở Nga vào những năm 60 – 70 thế kỷ XIX.
Những quan điểm về giáo dục của Tolstoi, được trình bày tập trung trong một loạt bài viết chuyên sâu vào những năm 1862-1863 và được ông kiên trì bảo lưu, đã là tiên tiến trong thời đại của ông, vẫn là tiên tiến trong thời đại ngày nay và đặc biệt cho Việt Nam ta nơi nền giáo dục, đi chệch quỹ đạo từ 1945, đang đòi hỏi những tâm lực và trí lực phi thường để cứu sống. Không phải ngẫu nhiên mà ngay khi nhà văn Nga còn sống, những công trình nghiên cứu về Tolstoi – nhà sư phạm đã xuất hiện ở phương Tây. Và sự không thành công trong hoạt động giáo dục, cũng như việc bỏ dở đề án về cải tổ quân đội vì biết trước nó sẽ không được chấp nhận chỉ chứng minh trong cả hai lĩnh vực ấy Tolstoi đã đi trước thời đại mình (và có khi mọi thời đại) đến đâu.
Không thể biết được, nếu mà Tolstoi không vấp phải những khó khăn rắc rối trong hoạt động nhà giáo của mình, chúng đã khiến ông phải nản chí và trở về với sáng tác văn chương, thì loài người sẽ không có hay sẽ vẫn có “Chiến tranh và hòa bình” và “Anna Karenina” để thưởng thức, suy ngẫm, học tập, kiến giải.
Dưới góc độ hành trình tư tưởng của Tolstoi, xin chỉ đụng đến hai kỳ đài văn học này, được sáng tác trong khoảng thời gian giữa trưa của cuộc đời Tolstoi (1863-1878), trong liên hệ với lời phát biểu nổi tiếng của ông: “Trong “Chiến tranh và hòa bình” tôi yêu thích tư tưởng nhân dân, trong “Anna Karenina” – tư tưởng gia đình”.
Trước hết cần phải nói rằng từ “nhân dân” trong tổ từ “tư tưởng nhân dân” là cách dịch chữ, chứ không phải dịch nghĩa. Tổ từ “mysl’ narodnaja” của Tolstoi có hàm nghĩa sâu rộng hơn rất nhiều. Trong tiếng Nga những từ thuần Nga “narod (nhân dân; dân chúng; dân tộc) “rod” (dòng giống, loài giống, chủng tộc); “rodit’ / rodit’sja” (sinh đẻ / sinh ra), “narodit’ / narodit’sja” (sinh đẻ nhiều / sinh sôi nảy nở), “priroda” (thiên nhiên; cái tự nhiên; bản chất; bản thể) là những từ đồng căn, và cái căn chung ấy được tất cả các chủ nhân của ngôn ngữ này cảm thụ sống động trong sử dụng hàng ngày. Như vậy “mysl’ narodnaja” của Tolstoi có thể diễn đạt ra tiếng Việt đại để như sau: “tư tưởng / ý tưởng – về / của – nhân dân / dân tộc – (như là một bộ phận của) – loài (người) sinh sôi nảy nở – (như là một bộ phận / trong quan hệ với) – cái tự nhiên / cái bản thể”. .
Trong cái liên hợp bao la, với những quan hệ qua lại chằng chịt của những ngữ nghĩa, ý tứ sâu thẳm ấy, ta tách ra chỉ một chuỗi nghĩa nhỏ để thử xem xét, phân tích: “tư tưởng – về – nhân dân – (như là một bộ phận của) loài người – (như là một bộ phận / trong quan hệ với) – cái tự nhiên / cái bản thể.” “Nhân dân” được nhà văn và nhà tư tưởng Tolstoi yêu thích và yêu quý không theo nghĩa xã hội học mà theo nghĩa tự nhiên học, bản thể học. Cái nhân dân / dân chúng như là những giai tầng xã hội hạ lưu đố kỵ và đấu tranh với những giai tầng thượng lưu để giành giật lợi ích và địa vị thì luôn luôn bị Tolstoi khinh ghét, và ở đây ông luôn luôn giữ thái độ của một đại quý tộc có dòng giõi hiển vinh lâu đời.(1)
Khinh ghét cái “dân đen” hạ lưu, nhà quý tộc tinh thần Tolstoi khinh ghét cả “dân đen” thượng lưu – giới quý tộc quan lại ôm chân núp bóng vương quyền để được hưởng giàu sang phú quý, đặc quyền đặc lợi, và tìm kiếm những giá trị chân chính ở nguồn cội của nhân sinh – ở đời sống tự nhiên trên đất, đời sống nhà nông. Nhân dân đối với Tolstoi trước hết và chủ yếu là những nông phu lao động trên đất, kiếm sống từ đất; đời sống của họ, phù hợp với luật tự nhiên, theo Tolstoi (và ở đây ông là học trò của Rousseau mà ông ái mộ từ thời niên thiếu) là đời sống lành mạnh nhất, thiện lương nhất.
Loài người, cũng như mọi loài vật trên mặt đất này, phải lao động để sống và để duy trì cuộc sống của nòi giống mình – đó là luận điểm xuất phát của triết học đạo đức và cả mỹ học Tolstoi. Chất thơ của lao động và sinh hoạt nhà nông, vắng mặt trong “Chiến tranh và hòa bình”, đã xuất hiện rực rỡ trước đó trong tiểu thuyết “Những người Kazăc” (1862) và sẽ tái hiện trong “Anna Karenina”, không để cho một độc giả nào có thể dửng dưng, truyền cho nó cảm giác là nó đang tiếp xúc với đời sống thực.
“Tư tưởng nhân dân” trong “Chiến tranh và hòa bình” được thể hiện tập trung ở sự cho thấy, cái nhân dân cần lao, sống một đời sống lành mạnh, tự nhiên ấy ứng xử thế nào, khi có giặc đến nhà. Là lẽ tự nhiên đối với họ cầm súng đánh đuổi giặc. Đuổi nhiều hơn đánh. Đuổi ra khỏi đất nước mình để trở lại với đời sống và lao động trên đất, tuyệt không nghĩ gì đến vinh quang của chiến thắng, đến danh dự được bảo vệ và nâng cao của dân tộc, vị trí và uy tín được củng cố của quốc gia, v.v…, không cần đến tất cả những thứ ấy. Cái triết lý chiến tranh nhân dân ấy, đặt chiến đấu bảo vệ tổ quốc lên một mặt bằng với mọi công việc thường nhật và thiết yếu của con người để duy trì cuộc sống và tước đi của nó mọi hào quang của chủ nghĩa anh hùng lên gân, của những kỳ tích ngoại biệt, ấn định toàn bộ thi pháp của tiểu thuyết – sử thi.Người thể hiện bằng việc làm và lời nói cái triết lý ấy là tổng tư lệnh, nguyên soái công tước Kutuzov – một nhân vật văn học khác xa với nguyên mẫu của nó trong lịch sử. Kutuzov của Tolstoi đúng là một hiện thân sống động, được cá thể hóa cao độ của quan điểm nhân dân về chiến tranh. Khi giặc ngoại xâm mạnh, ông lùi bước, nộp cho giặc cả cố đô Moskva, để bảo toàn quân lực. Khi giặc bắt đầu yếu đi và rút lui, ông đuổi theo sát gót nó, không cho nó quay gót trở lại. Đuổi giặc đến biên giới thì không chịu đuổi tiếp nữa, và cho là nhiệm vụ của mình đã hoàn thành, và chết. (Trong thực tế lịch sử thì Kutuzov đã chết trên đường tiếp tục truy kích quân Pháp theo lệnh của Alexandre đệ Nhất).
Kutuzov dưới ngòi bút của Tolstoi không phải là một anh hùng dân tộc, một thiên tài quân sự mà là một thành viên đáng tin cậy của cộng đồng nhân-dân – dân-tộc Nga và cộng đồng loài người, là một phần nhỏ tí ti được nạp trí lực tập trung của vũ trụ tự nhiên, sống và hoạt động theo lẽ muôn đời của cái tự nhiên ấy, vì sự trường tồn của nó. “Ông ta không có cái gì của mình cả, – Andrei Bolkonski suy nghĩ về Kutuzov – ông sẽ không tự nghĩ ra một cái gì, tiến hành một cái gì, nhưng sẽ lắng nghe tất cả, nhớ tất cả, đặt tất cả vào vị trí của nó, sẽ không cản trở một cái gì hữu ích và sẽ không cho phép một cái gì có hại.
Ông hiểu rằng có một cái gì đó mạnh hơn và to lớn hơn ý chí của ông – đó là vận trình tất yếu của các sự kiện, và ông biết nhìn thấy chúng và hiểu ý nghĩa của chúng và do hiểu ý nghĩa ấy, ông biết chối từ can thiệp vào những sự kiện ấy, chối từ ý chí cá nhân của mình hướng vào một cái gì đó khác.” Trong thời kỳ viết “Chiến tranh và Hòa bình”, Tolstoi còn chưa biết gì về Lão Tử, chưa đọc “Đạo đức Kinh”, nhưng ông đã ban cho nhân vật của mình sự anh minh của người thấu hiểu chữ Đạo (“vận trình tất yếu của các sự kiện”, nếu dịch sát hơn thì là “bước đi tất yếu”) và hành xử theo sự hiểu biết ấy, hay là “vô vi” theo nghĩa của Lão Tử.Những tương cận, những trùng hợp với Lão Tử và tư tưởng phương Đông nói chúng ở Tolstoi, từ lâu đã được để ý đến, cần được xem xét trong một văn cảnh rộng nhất – văn cảnh của những mẫu gốc chung của văn hóa loài người.(1) Cái mô hình lý tưởng của sự sống hoàn vũ, mà trong đó con người và các hợp quần người là những bộ phận hữu cơ ăn khớp với nhau và với chỉnh thể, được phô diễn với sức mạnh tư tưởng – nghệ thuật vô song trong “Đạo đức Kinh”, dưới nhiều biến tướng, đôi khi phân tán, từng làm cơ sở cho nhiều tác phẩm sử thi lớn của thế giới – từ “Iliade” đến “Chiến tranh và hòa bình”. Trong “Chiến tranh và hòa bình” khả năng “hóa thật” của mô hình ấy được khảo xét trên chất liệu lịch sử dân tộc, ở thời điểm ngoại biệt của cuộc chiến tranh vệ quốc 1812. Nhiều mâu thuẫn nội tại gay gắt, nhiều ung nhọt nguy hiểm của xã hội Nga thời ấy (nổi trội là chế độ nông nô) trong tiểu thuyết của Tolstoi đã được xoa dịu hữu thức nhằm thực hiện nhiệm vụ nghệ thuật tạo ra một bức tranh về “trạng thái sử thi của nhân thế” (Hegel).
Và Tolstoi – nghệ sĩ đã làm tròn nhiệm vụ ấy, vì thế mà “Chiến tranh và hòa bình” được cả thế giới văn minh, sầu nhớ sử thi cổ điển, tiếp nhận như là sử thi của thời đại mới. Nhưng Tolstoi đã để lại và khuyếch trương một tọa độ quan trọng, phá vỡ từ bên trong thế giới sử thi – tọa độ nhân cách học – cá nhân học. Hai nhân cách cao đẹp và phức tạp, hai người “anh hùng” của tiểu thuyết – sử thi, Andrei Bolkonski và Pier Bezukhov, trong thời bình đã không hòa hợp với môi trường xã hội – dân tộc của mình, trong chiến tranh giữ nước cũng không hội nhập đến cùng với nó. Công tước Andrei chỉ tham chiến bằng lý trí và ý thức đạo nghĩa, chứ không phải bằng cả tâm hồn. Ngay đêm trước trận quyết chiến giữa quân Nga và quân Pháp chàng vẫn sống với vết thương lòng cá nhân sâu kín, không để cho ai biết của mình và sau khi bị tử thương chỉ suy nghĩ về tình yêu, về cái chết, về Thượng Đế, chứ không phải về nước Nga, về kết cục của cuộc chiến với Napoléon.
Và Tolstoi đã cho nhân vật này chết, bởi vì cuộc sống tiếp tục sẽ chỉ là sự kéo dài không cần thiết bi kịch tất yếu của một nhân cách tiểu thuyết luôn luôn to lớn hơn số phận, quá khổ với mọi y phục xã hội – lịch sử. Còn Pier Bezukhov, một nhân cách đương trong quá trình trưởng thành, thì chỉ quan sát và trải nghiệm cái thực tại chiến tranh, để rồi về cuối tiểu thuyết, trong bối cảnh hòa bình đã được lập lại, với những mâu thuẫn xã hội tái hiện sắc nét hơn xưa, đi đến nhận thức rằng “nếu những kẻ ác hợp thành sức mạnh, thì những người tốt cũng phải hợp thành sức mạnh” để đấu tranh với chúng – một kết luận mà Andrei Bolkonski vị tất sẽ tán thành và trái ngược rõ ràng với cái mô hình nhân thế lý tưởng cuốn hút đến thế tác giả “Chiến tranh và hòa bình” và suốt đời sẽ cuốn hút Tolstoi – nhà tư tưởng.
Chúng ta chuyển sang “tư tưởng gia đình” được Tolstoi yêu thích trong tiểu thuyết “Anna Karenina”. “Tư tưởng gia đình” ở đây được khảo xét trên chất liệu xã hội đương thời (với tác giả) trên ba bình diện trọng yếu: 1) gia đình như là nhân tố bảo đảm sự trường tồn của loài giống con người; 2) gia đình như là thành quả và sự hiện thực hóa nối tiếp của tình yêu; 3) gia đình như là hậu thuẫn, bệ đỡ cho sự phát triển của con người. Cả ba bình diện này đã được vạch ra bằng những nét chấm phá trong “Chiến tranh và hòa bình”(1), hội tụ trong hạnh phúc vợ chồng của Pier Bezukhov và Natasha Rostova. Konstantin Levin và Kiti Sherbatskaja trong “Anna Karenina” có thể được xem là những hóa thể của hai nhân vật trên, và nếu ở Levin có thể tìm hấy những chiều kích mới so với Bezukhov, thì Kiti dường như là một bản sao (đáng tiếc mờ nhạt hơn) của Natasha.
Song rõ ràng cả hai cặp nhân vật này đều khẳng định một tư tưởng tâm huyết của tác giả: gia đình là cái đích, là bến bờ của tình yêu; tình yêu cập cái bến bờ ấy để bắt rễ vào đất và đơm hoa kết trái, thực hiện thiên chức muôn đời của mình: sinh dưỡng hậu thế, bảo đảm sự tái sản xuất của giống nòi. Với Tolstoi, sự thực hiện thiên chức ấy là quan trọng đến mức ông không ngại gây sốc cho độc giả dám biến Natasha Rostova từ một thiếu nữ sinh ra trong nhung lụa, có sức hấp dẫn mê ly của một tâm hồn trẻ, mở toang ra thế giới bên ngoài để hấp thụ mọi hương sắc và hương vị của nó, thành chỉ một người vợ và một người mẹ (“một con cái sung sức, đẹp và mắn con”) nuôi con bằng sữa của mình và hồn nhiên khoe những chiếc tã lốm đốm vết xanh vàng của chúng. Bằng những hình ảnh đập vào mắt ấy, Tolstoi khẳng định quan niệm của mình về sứ mệnh đích thực của người phụ nữ, gạt bỏ những tư tưởng theo ông là thời thượng, nông nổi và sai lầm về giải phóng phụ nữ.
Người phụ nữ như là một người vợ tốt và người mẹ tốt và linh hồn của tổ ấm gia đình mãi mãi sẽ cần thiết và hữu ích cho loài người hơn là một người hoạt động xã hội, nhà nước, khoa học, nghệ thuật, v.v… – tư tưởng này sẽ được Tolstoi suốt đời bảo lưu. Kiti Cherbatskaja, cũng như Natasha Rostova thấu triệt cái thiên chức ấy, sung sướng thực hiện nó, thỏa mãn với nó và vì nó mà hi sinh những năng lực và sở thích khác của mình, tự hạn chế môi trường hoạt động của mình, tự đặt ranh giới cho sự phát triển con người của mình. Không vội lên án Tolstoi cổ hủ, ta thử xem Konstantin Levin, chồng của Kiti, có gì sống và có gì khác Pier Bezukhov, chồng của Natasha.
Levin, cũng như Pier, là một nhà quý tộc tự hào về dòng dõi lâu đời của mình và đối lập mình với những quý tộc mới nảy nòi mà cha ông do ôm chân núp bóng vương quyền mà được hưởng phú quý. Nhưng nếu Pier suốt đời chỉ là nhà trí thức hoạt động xã hội thì Levin trước hết là một điền chủ trực tiếp canh tác đất, sống bằng đời sống của nhà nông. Vụng về và xa lạ trong những phòng khách quý tộc, Levin cảm thấy mình như cá trong nước giữa ruộng đồng, bên cạnh những người mugic cày bừa, cắt cỏ, gặt lúa. Đời sống tinh thần, đời sống nội tâm của chàng dĩ nhiên phong phú, phức tạp và tinh tế hơn nhiều so với những người nông dân bao quanh chàng, nhưng nó ăn nhập với cuộc sống của chàng, và cái hạnh phúc gia đình của chàng, sự sinh con và nuôi con được khắc vẽ với những chi tiết rất tỉ mỉ, thấm đượm chất thơ chính trong khung cảnh cuộc sống lao động trên đất, gần gũi với cội nguồn của nhân sinh ấy. Trước cũng như sau Tolstoi, không ai truyền đạt được cái đẹp, chất thơ của cuộc sống lao động chân tay với sức mạnh chinh phục như ông. Nhưng tiểu thuyết của Tolstoi không ngẫu nhiên mang tên “Anna Karenina” – đây mới là nhân vật trọng tâm, là trọng điểm tư tưởng – nghệ thuật của tác phẩm. Một người phụ nữ vì theo đuổi hạnh phúc cá nhân đã phá vỡ tổ gia đình, chối bỏ nghĩa vụ người vợ và người mẹ của mình để khi thất vọng thì tự kết liễu cuộc đời mình – là như thế cốt cách của hình tượng trung tâm này trong quan hệ với “tư tưởng gia đình” của tác giả.
Tội lỗi của Anna (mà nhân vật này luôn luôn cảm thấy nhưng người đọc bị nàng mê hoặc thì nhiều khi sao nhãng) sẽ trở nên sáng rõ hơn, nếu ta so sánh người chồng bị nàng ruồng bỏ với người tình đã quyến rũ nàng. Tác giả công bằng với hai nhân vật này và tuyệt không nhìn họ chỉ bằng con mắt của nữ nhân vật. Cả Aleksei Karenin lẫn Aleksei Vronski (sự trùng tên ở đây cũng không ngẫu nhiên) đều là những sản phẩm bằng máu thịt của xã hội quý tộc thượng lưu Nga, họ sống, cảm nghĩ và hành xử theo những chuẩn mực và định kiến của xã hội ấy và không bao giờ có nhu cầu bước ra khỏi cái khung chật hẹp, ước lệ và giả tạo ấy.
Tất nhiên, ở cả hai nhân vật đều có cái phần nhân tính dư thừa (định thức của Bakhtin) biến họ thành những nhân vật tiểu thuyết, song nếu xét kỹ thì ở Karenin cái phần nhân tính dư thừa ấy còn nổi trội hơn ở Vronski. Karenin đã có thể tha thứ cho vợ mình, đã quyết định nhận hết lỗi về mình để giải phóng cho nàng, đã thật lòng yêu quý đứa con riêng của nàng – những điều tương tự như thế không thể chờ đợi ở Vronski. Thế thì cái gì ở Vronski đã cuốn hút Anna đến thế? Ngoài sự phú quý mà cả Karenin cũng có thì đó là tuổi trẻ, sức trai tráng kiện không có ở Karenin. Tình yêu của Anna đối với Vronski là tình yêu nhục cảm, không mang một dấu hiệu tinh thần nào. Tolstoi khắc họa với một tài nghệ vô song không chỉ sắc đẹp và cái duyên ngời ngời của nữ nhân vật này mà cả những năng lực dồi dào của tâm hồn và trí tuệ nàng, để bằng toàn bộ diễn biến của mối tình với Vronski cuối cùng dẫn dắt nàng đến kết luận khắc nghiệt nhưng công bằng về bản thân: “Giá mà mình có thể là một cái gì, ngoài một người tình yêu cuồng nhiệt chỉ những ái ân của chàng; nhưng mình không thể và không muốn là bất cứ một cái gì khác.”
Sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành đã bị biến thành phương tiện chuyên biệt để giữ lấy tình yêu vị kỷ của người tình: để trẻ đẹp lâu, Anna quyết định không đẻ con nữa, bất chấp mong ước có nhiều con của Vronski. Một tình yêu như thế, được khơi gợi và nuôi dưỡng chỉ bằng sắc đẹp và sự thỏa mãn được sở hữu nó mau chóng bộc lộ mình như một sức mạnh hủy hoại và tự hủy hoại. Nó là biểu hiện của cái mà sau này Freud sẽ gọi là “bản năng chết”. Tolstoi không biết cái định thức khoa học ấy và giả sử có biết thì chắc cũng sẽ không chấp nhận. Như một nhà tư tưởng lo lắng cho tiền đồ trong chân lý và đức hạnh của loài người, ông sẽ kêu gọi con người hết sức cảnh giác và biết tự vệ trước sức mạnh ấy. Kêu gọi không mệt mỏi vì ông quá biết khả năng tác động của nó.
Trong tiểu thuyết của ông, một hiện thân của đức hạnh và lương tâm như Levin chỉ cần gặp gỡ chốc lát là đã xiêu lòng trước sức hấp dẫn không thể cưỡng lại của tuyệt thế giai nhân Anna, và để bảo toàn đức hạnh sẽ bằng mọi cách tránh gặp lại nàng, điều mà nhân vật này sẽ không khó làm vì được vợ canh giữ, vả lại chẳng bao lâu nữa giai nhân ấy sẽ gieo mình xuống dưới bánh xe tầu hỏa. Cái đó có nghĩa là cái đẹp thân xác, cái đẹp nhục cảm sẽ không có chỗ trong nhân loại được “lập trình” của Tolstoi. “Chúng ta càng đắm say cái đẹp, thì càng lìa xa cái thiện.” – Tolstoi sau này sẽ viết. Và cho đến chết ông sẽ không tìm kiếm những con đường dung hợp cái thiện với cái đẹp, điều không khó hiểu ở nhiều nhà tư tưởng, nhưng không phải ở tác giả “Anna Karenina”. Ngay trong lãnh địa của cái đẹp – nghệ thuật, Tolstoi cũng sẽ kêu gọi những người sáng tạo và thưởng thức tìm kiếm chỉ cái đẹp tinh thần, đồng nhất nó đơn thuần với cái thiện.
Nhưng ông quá biết rằng bản thân cái thiện, như nó hiện diện trong đời sống của xã hội loài người, còn xa mới có được sức cuốn hút của cái đẹp. Và ông sẽ phải tìm đến một sức mạnh bao hàm cả cái thiện lẫn cái đẹp, đứng lên trên mâu thuẫn thực chứng giữa chúng, nhưng phải nói thật, sức mạnh ấy – Thượng Đế – dưới ngòi bút ngay của Tolstoi vẫn chưa đủ sức hấp dẫn mà lẽ ra nó phải có, thành thử, trở về với tiểu thuyết của ông, còn xa mới mọi bạn đọc đều đồng tình với cách tiếp cận dẫu sai vẫn duy đạo đức của Tolstoi với cái đẹp sắc nước hương trời hiện thân nơi Anna. Homère trong quan hệ với Hélène, Bạch Cư Dị trong quan hệ với Dương Quý Phi và cả loài người trong thái độ đối với Maryllin Monroe và công nương Diana thấu tình đạt lý hơn.
Trở lại với “tư tưởng gia đình” như nó được khảo xét trong “Anna Karenina”, ta không thể không thấy rằng nó được khẳng định dè dặt và có điều kiện hơn nhiều so với “tư tưởng nhân dân” trong “Chiến tranh và hòa bình”. Nơi ấy đằng sau nguyên soái Kutuzov là hàng triệu người Nga cảm nghĩ và hành động như ông, đằng này cái gia đình hợp chuẩn của Levin và Kiti chỉ có một, tất cả các gia đình khác được mô tả hay nói đến đều lệch chuẩn một cách tệ hại. Những người con sinh ra và lớn lên trong môi trường gia đình như thế (con trai của Anna, con cái của Dolli và Stiva Ollonski, bản thân Vronski trong quan hệ với mẹ) là những sinh linh tinh thần bất hạnh, què quặt. Một nhân quần như thế phải được chữa lành, chứ không chỉ sinh sôi nảy nở và càng về sau thì với Tolstoi, sự cần thiết chữa lành loài người càng trở nên hệ trọng hơn, làm thay đổi hẳn thái độ của ông đối với tình yêu nam nữ, hôn nhân và gia đình, như ta có thể thấy qua truyện “Bản xônat Kreutzer” và Lời bạt cho truyện ấy (được đưa vào sách này).
Trở lại với cái hạnh phúc ngoại biệt của Levin và Kiti, bản thân nó có trọn vẹn và bền vững hay không? Ngoài những hi sinh của Kiti (cũng như của Natasha trong “Chiến tranh và hòa bình”) biến hạnh phúc ấy thành cái không viên mãn, hạnh phúc ấy còn mong manh nữa. Levin của Tolstoi, tựa như chính Tolstoi trong đời thực, luôn luôn ở trong quá trình chuyển biến tư tưởng, với những biến đổi khó lường trước. Trong tiểu thuyết, như Dostoievski đã tinh ý nhận thấy ngay khi nó còn được đăng tải trên tạp chí, nhà điền chủ Levin còn khăng khăng bảo vệ những quyền lợi điền chủ của mình, cố dung hòa chúng với công lý và chân lý mà tâm hồn chàng hướng tới. Đau khổ vì thiếu đức tin tôn giáo, Levin ở cuối tiểu thuyết bừng ngộ về sự tồn tại của Thượng Đế và về chân lý thần thánh, vượt lên bên trên trí tuệ của con người: “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”. Tiểu thuyết đến đây thì kết thúc, nhưng người đọc dễ hình dung ra con đường mà nhân vật này sẽ phải đi tiếp.
Đã thấm nhuần chân lý thần thánh ấy thì Levin sẽ không thể tiếp tục bảo vệ những lợi ích điền chủ của mình, mâu thuẫn với lợi ích của những người nông dân nghèo khổ vì không có đất để canh tác, sẽ không thể không muốn chia sẻ ruộng đất của mình với họ. Nhưng lúc ấy thì liệu Kiti có đồng tình với chàng hay không? Nếu nàng sẽ không đồng tình, nếu sẽ một mực phản đối, vì lợi ích của mình và của con cái, thì còn đâu hạnh phúc gia đình mà nền tảng độc nhất là sự vợ chồng tâm đầu ý hợp? Chính sự bất đồng không thể khắc phục về vấn đề sở hữu trong đời thực sẽ trở thành bi kịch của gia đình Tolstoi, kéo dài ba thập niên và chỉ kết thúc với cái chết của ông.
“Tư tưởng nhân dân” và ‘tư tưởng gia đình” làm cốt lõi cho hai kiệt tác lớn nhất của nhà văn Tolstoi, đồng thời là hai giai đoạn quan trọng trong vận trình hình thành Tolstoi – nhà tư tưởng. Tâm đắc với hai tư tưởng ấy, Tolstoi bằng logic nội tại của sự khảo xét nghệ thuật đã đi đến xác tín về tính hữu hạn, tính tương đối của những giá trị phổ biến của nhân sinh như gia đình hay nhân dân – dân tộc. Với những giá trị tương đối, cần phải quý trọng, nhưng không thỏa mãn. Khao khát cái tuyệt đối, Andrei Bolkonski đã không thỏa mãn với chúng, và cả Konstantin Levin cũng sẽ không thỏa mãn. Còn Tolstoi, tác giả của những hình tượng văn học ấy, thì trong tương lai gần sẽ trải nghiệm sự khủng hoảng của những giá trị tương đối ấy và sẽ tìm cách thoát khỏi khủng hoảng.
Cuộc khủng hoảng này, xảy ra trong cuộc đời của Tolstoi vào cuối những năm 70 thế kỷ XIX, tái hiện trong tác phẩm “Tự bạch” được viết ngay sau đó. Sự xác thực hoàn toàn của những gì được kể ở đây, thái độ chân thành tuyệt đối của người kể, thể hiện ngay ở lối kể, ở hành văn xa lạ với mọi thứ hoa hòe hoa sói của thuật viết văn, mọi thủ pháp hướng tới hiệu quả tức thì của nghệ thuật hùng biện đã làm cho tác phẩm này trở thành vừa một tài liệu nhân học đáng tin cậy bậc nhất, vừa một kỳ đài vô tiền khoáng hậu của tư tưởng và nghệ thuật ngôn từ con người.
Tolstoi kể, và chúng ta tin ông, rằng vào tuổi năm mươi, thân thể còn tràn đầy sinh lực, trí tuệ còn rất mực minh mẫn, hạnh phúc trong đời riêng, giàu có và được xã hội trọng vọng và như một người cầm bút đã đạt được vinh quang toàn cầu, ông bỗng nhận thấy cuộc đời của mình là vô nghĩa hoàn toàn trước viễn cảnh của cái chết không thể tránh khỏi. Cái chết sẽ cào bằng tất cả, tước giá trị của tất cả và hủy tiêu tất cả. Đáng để ý là Tolstoi không dành ngoại lệ cho những trước tác văn học của mình, đang được cả thế giới văn minh tán thưởng. Mọi sản phẩm của con người đều bất toàn và sớm hay muộn đều chìm xuống dòng sông quên lãng. Triển vọng được hưởng vẻ vang trong hậu thế của Shakespeare, Goethe, Molière tuyệt không quyến rũ Tolstoi.
Nhưng ông không đặt vấn đề về sự bất tử của con người và loài người, như Dostoievski từng làm, như Vladimir Soloviev, triết gia Nga trẻ hơn ông và hay tranh luận ngầm với ông, đương làm. Câu hỏi Tolstoi đặt ra là liệu có tìm được hay không trong cuộc sống phù du, nay còn mai mất của con người một ý nghĩa mà cái chết cũng không tiêu hủy được? Cách đặt vấn đề như thế, không cao vọng như ở Dostoievski và Soloviev, bám sát thân phận hữu tử không có ngoại lệ của tất cả mọi người trên trái đất, một cách tự nhiên dẫn dắt tác giả “Tự bạch” đến sự khảo sát đời sống tâm linh, tín ngưỡng của các giới xã hội đương thời với ông. Và từ sự khảo sát ấy ông đi đến một nhận định đáng mừng vui cho mình, nó giúp ông từng bước chiến thắng nỗi tuyệt vọng và ý muốn tự sát.
Tolstoi nhận ra rằng nếu trong các tầng lớp xã hội thượng lưu, dưới cái vỏ toàn tòng bất biến của đạo Kitô chính thống được xem là quốc hồn quốc túy, đức tin tôn giáo thực thụ đã biến mất, nhường chỗ cho sự thờ ơ phổ biến hay sự trọng lễ vụ lợi đi đôi với thái độ phủ định mọi ý nghĩa siêu tại của cuộc sống con người, thì trong quần chúng nhân dân lao động đức tin ấy, cùng với niềm tin son sắt vào ý nghĩa của cuộc sống vẫn được bảo toàn không suy xuyển. Tin yêu nhân dân lao động, Tolstoi tiếp nhận tôn giáo của họ, nhận thức của họ về ý nghĩa của nhân sinh và cảm thấy mình thoát khỏi khủng hoảng tinh thần, nhận ra được “đường sống” chính thực. Cần phải tin vào Thượng Đế (Thiên Chúa), cần phải sống trong Chúa và vì Chúa, như tất cả những tín đồ chân chính của đạo Kitô – đó là tín niệm mà Tolstoi đã đi đến.
Hành trình tư tưởng của Tolstoi, như nó được tái tạo trong “Tự bạch”, là khá điển hình cho giới trí thức quý tộc Nga thế kỷ XIX đã cống hiến cho văn hóa thế giới nhiều nhân vật kiệt xuất đến thế. Ta có thể tìm thấy nó, thí dụ, trong tiểu sử của Dostoievski – một thiên tài quá hay bị đặt đối lập về mọi phương diện với Tolstoi. Cũng như Tolstoi, Dostoievski theo lời thú nhận của chính ông “là con đẻ của thời đại, con đẻ của sự bất tín và hồ nghi cho đến bây giờ và thậm chí đến tận lúc xuống mồ”. Và ông “đã và đang phải trả bằng những khổ đau ghê gớm biết chừng nào cho khát vọng tín ngưỡng”, nó “càng mạnh mẽ trong hồn” ông thì ông lại càng tìm thấy “nhiều lý lẽ chống lại”. Và cũng không phải từ sách vở mà từ sự tiếp xúc trực tiếp với nhân dân lao động mà Dostoievski đã lấy lại được niềm tin tôn giáo, và niềm tin ấy đã trở thành hệ thần kinh trung ương của toàn bộ sáng tác chín muồi của Dostoievski, cả văn học lẫn nghị luận.
Cho đến khi Dostoievski qua đời những tương đồng trong tư tưởng giữa ông với Tolstoi nhiều hơn là những dị biệt, chính điều đó đã khiến Tolstoi phải xót xa đến thế trước sự ra đi của Dostoievski (xem thư của ông gửi N.N. Strakhov đề ngày 5 tháng Hai 1881). Điểm tương đồng chính, quan trọng hơn cả là cái mà sau này Tolstoi sẽ gọi là “nhân sinh quan thượng đế luận”, nó được thấu triệt như nhau bởi cả Tolstoi lẫn Dostoievski và làm cho hai thiên tài Nga này khác biệt đến thế các văn hào Tây Âu thế kỷ XIX, với thế giới quan ít nhiều bị thế tục hóa nơi họ. Đối với tư duy thế tục hóa, cái thực tại xã hội luôn luôn xấu xa tồi tệ hiện ra trước mắt người cầm bút dễ có thiên hướng bị xem là thực tại duy nhất mà ngoài ra nó không có và không thể có một thực tại nào khác, nhưng đồng thời những mục tiêu đấu tranh trước mắt, nhất thời và cục bộ, lại dễ thu lượm tầm quan trọng, ý nghĩa của những mục đích cuối cùng.
Thế giới quan “thượng đế luận”, được hấp thụ triệt để và có ý thức, đã giúp Dostoievski và Tolstoi tránh khỏi cả hai kiểu nông cạn ấy, đạt tới những chiều sâu vô song trong tư duy nghệ thuật, đồng thời cũng giúp họ trong hoạt động xã hội với tư cách những nhà tư tưởng không ngừng nâng mình lên tầm cao của những lợi ích chân chính, những giá trị trường cửu của toàn thể nhân loại và dưới ánh sáng của chúng mà nhìn nhận, đánh giá tất cả những gì diễn ra trong thời đại của mình, ở đất nước mình, nhờ đó mà không chỉ những kiệt tác văn chương, mà cả những tác phẩm nghị luận của họ không mất đi ý nghĩa cho đến tận hôm nay.
Như một nhà tư tưởng, Tolstoi đã đi tiếp con đường từng đi cùng với Dostoievski, nhưng trong vòng ba thập niên tiếp theo đã phát triển, sửa đổi, bổ sung nhiều quan điểm và ý tưởng cơ bản, mà Dostoievski, giả sử ông còn sống, chưa chắc đã tán thành (có thể đoán biết điều này qua quan hệ tinh thần phức tạp giữa Tolstoi và Vladimir Soloviev, người khá gần gũi về tư tưởng với Dostoievski). Một bất đống quan trọng sẽ có thể xảy ra giữa họ nằm ngay trong lĩnh vực tôn giáo. Như đã nói, cả Tolstoi lẫn Dostoievski đều đi từ sự bất tín đến niềm tin nồng cháy và kiên định vào một Thượng Đế chí công chí thiện, bất tử và thập toàn, người sáng tạo hay khởi nguyên của tất những gì tồn tại. Nhưng ở Dostoievski niềm tin ấy đồng nhất với một tín ngưỡng cụ thể và một tôn giáo thực định, nó cũng là tín ngưỡng và tôn giáo của nhân dân ông – đạo Kitô chính thống. Ông không hoài nghi một nguyên lý và một nghi lễ chính yếu nào trong tôn giáo ấy.
Tolstoi thì không thế. Ngay trong “Tự bạch”, mà Dostoievski đã không thể đọc, ông đã cho biết rằng ông không thể tiếp nhận toàn bộ giáo thuyết và lễ thức của đạo chính thống Nga, cũng như của các giáo phái khác: công giáo, tin lành, do những yếu tố siêu nhiên, những mâu thuẫn nội tại và những điều phi lý chứa đựng trong đó mà lý trí con người không thể chấp nhận. Theo Tolstoi, học thuyết tôn giáo của Kitô (mà ông chỉ coi là người, y như Phật Đà, Khổng Tử, Mohammed, chứ không phải Thần – Nhân) trong quá trình lịch sử đã bị bóp méo và kiến giải sai trái làm cho nó biến chất, mất đi sức sống, sức chinh phục trái tim và khối óc của nhân loại.
Sau “Tự bạch” Tolstoi đã bỏ ra ba năm để nghiên cứu và phê phán thần học Kitô giáo chính thống, để dịch lại và hợp nhất bốn sách Phúc Âm trong kinh Cựu Ước chứa đựng sự tích và những lời dạy của Kitô và từ đấy trở đi kiên trì bảo vệ những quan điểm tôn giáo của mình, bất chấp sự không đồng tình của hầu hết mọi người mà ông có quan hệ huyết nhục hay thân thiết, chứ chưa nói đến quần chúng nhân dân Nga mà tuyệt đại đa số vừa không biết gì về những tìm kiếm giáo lý nơi ông vừa tiếp tục tin theo vô điều kiện cái tôn giáo hiện hành, được nhà nước quân chủ chuyên chế bảo trợ.
Không đi sâu vào những bất đồng giữa Tolstoi và đạo Kitô lịch sử, xin chỉ ra cái động cơ sâu kín của chúng đã được chính Tolstoi thổ lộ trong nhật ký thời trẻ – “sáng lập một tôn giáo mới phù hợp với sự phát triển của nhân loại…”. Cái tôn giáo mới dành cho cả nhân loại ấy, khác với những tôn giáo cổ truyền mà tất cả đều có nguồn gốc địa phương, cội rễ sắc tộc, phải chứa đựng chỉ những chân lý mà tất cả mọi người trên thế giới đều có thể chấp nhận. Để xây dựng một học thuyết tôn giáo như thế, Tolstoi đã không ngại ngần bước vào xung đột trực tiếp với giáo hội chính thống của nước ông, khiến hầu hết các tác phẩm nghị luận của ông đều bị cấm và phải in ở ngoài nước, phát tán bí mật ở trong nước, gây hệ lụy cho những người phát tán, và cuối cùng chính ông, như ta biết, đã bị thánh vụ viện Nga khai trừ ra khỏi giáo hội.
Một diễn biến tư tưởng quan trọng nữa nơi Tolstoi, liên quan mật thiết với sự thay đổi lập trường tôn giáo, đó là sự đổi thay thái độ đối với chính thể quân chủ chuyên chế rồi sau đó đối với mọi chính thể nhà nước nói chung. Nhà đại quý tộc và điền chủ cha truyền con nối Tolstoi, mà lợi ích giai cấp được chế độ Sa hoàng ưu tiên bảo vệ, trong ba mươi năm cuối đời công khai gạt bỏ chế độ ấy, khẳng định nó là một chính thể đã lỗi thời, đi ngược lại lợi ích của nhân dân và tiến bộ lịch sử. Bằng hành động ấy, Tolstoi tạo thêm cho mình những đối thủ không chỉ trong các tầng lớp cầm quyền, mà cả trong giới những đồng chí trước đây của mình – những người mà (được gọi gộp là phái “thân Slavơ”, trong đó có Dostoievski, có thi hào Tiutchev được Tolstoi một mực ái mộ, có triết gia N.N. Strakhov, một thời gần gũi đến thế với Tolstoi) trong những nỗ lực tìm kiếm cho nước Nga những con đường phát triển không giống phương Tây đã gửi gắm hy vọng vào chế độ quân chủ chuyên chế, nuôi dưỡng ý đồ thiết lập một liên mình chí công chí đức giữa Sa hoàng với nhân dân – dân tộc vượt lên trên mọi lợi ích cục bộ của các đẳng cấp xã hội.
Xuất phát không từ lập trường giai cấp, như các nhà cách mạng Nga, nhưng sắc bén không kém họ, Tolstoi đã vạch trần tính ảo tưởng của những hy vọng và ý đồ ấy. Nhưng ông còn đi xa hơn nữa. Tìm kiếm hình thức tổ chức xã hội tối ưu cho dân tộc và loài người, Tolstoi sẽ gạt bỏ mọi kiểu nhà nước và quyền lực nhà nước, nhìn thấy ở đấy một cái họa lớn và một thế lực đen tối, vây hãm nhân loại trong vòng nô lệ, và ông sẽ gặp phải sự phản đối quyết liệt của nhiều bộ óc uyên thâm và minh mẫn (trong đó có Soloviev), họ sẽ chỉ ra tất cả sự vô lý không thể chấp nhận của cái chủ nghĩa vô chính phủ quá khích, không tính tới những điều kiện xã hội và lịch sử cụ thể như thế. Và Tolstoi sẽ thấy mình lẻ loi, cô đơn, nhưng vẫn không từ bỏ xác tín của mình.
Một thay đổi hệ trọng nữa trong lập trường tư tưởng của Tolstoi liên quan đến nhân dân của ông, dân tộc của ông. Yêu mến nhân dân lao động Nga, quý trọng những giá trị đạo đức – tinh thần của họ, Tolstoi càng về già càng cảnh giác cao độ đối với mọi ý đồ, mọi khuynh hướng cường điệu, khuyếch tán những đức tính của người Nga, biến chúng thành niềm tự hào dân tộc, thành căn cứ để gán định cho người Nga một sứ mệnh lịch sử đặc biệt nào đó (như ta biết, Dostoievski đã không tránh khỏi sai lầm này). Ông nhìn thấy nguy hại lớn cho những người Nga thuộc mọi đẳng cấp ở chính sách của giới thượng lưu cầm quyền, mơn trớn lòng tự ái dân tộc của họ để biến họ thành những công cụ thực hiện những mục tiêu ích kỷ của cường quốc Nga.
Là công dân của một đế chế hùng mạnh nhất ở châu Âu, đã chinh phục và sáp nhập rất nhiều dân tộc nhỏ và vừa, Tolstoi luôn luôn giữ thái độ không khoan nhượng đối với mọi biểu hiện của chính sách phân biệt chủng tộc, Nga hóa cưỡng bách các dân tộc bị đô hộ. Trong toàn bộ văn học Nga, không có một nhà văn lớn nào (có thể chỉ ngoại trừ Chekhov) mà lại tuyệt đối không vướng óc tự đại dân tộc, óc sôvanh nước lớn như Tolstoi. Nhưng ông còn đi xa hơn nữa. Theo đuổi lý tưởng thế giới đại đồng dựa trên tình huynh đệ của toàn nhân loại, Tolstoi sẽ nhìn thấy một chướng ngại vật lớn cho sự thực hiện lý tưởng ấy ở sự tồn tại của các dân tộc và quốc gia, mà mỗi một cấu tạo như thế tất yếu theo đuổi những lợi ích cục bộ của mình và sẽ chủ trương giải thể mọi quốc gia, lớn trước nhỏ sau và hòa mọi dân tộc vào một cộng đồng nhân loại chung.
Trong cái cộng đồng nhân loại ấy các sắc tộc sẽ vẫn giữ những đặc điểm ngôn ngữ và văn hóa của mình, nhưng tự hào dân tộc, ý thức quốc gia và chủ nghĩa ái quốc thì sẽ không còn nữa. Chủ nghĩa ái quốc như là một tàn dư lỗi thời và tệ hại của tâm lý và hệ tư tưởng bộ lạc sẽ trở thành một đối tượng công kích thường xuyên trong văn nghị luận của Tolstoi, vị tất lôi kéo quần chúng mọi thời bị đầu độc bởi hệ tư tưởng này ủng hộ đến cùng học thuyết của ông. Nếu thêm vào đấy thái độ bài bác triệt để của Tolstoi đối với ý thức giai cấp và đấu tranh giai cấp như thể những biểu hiện của con người thú vật chứ không phải con người tinh thần, thì không thể không thấy là Tolstoi đã có lý, khi đáp trả luận điệu của Thánh vụ viện Nga về ảnh hưởng xấu của những tư tưởng mà ông reo rắc, ông khẳng định rằng những người toàn tâm toàn ý đi cùng với ông trên khắp thế giới này chưa chắc đã đếm được một trăm, cho nên không việc gì phải sợ họ đến thế.
*
* *
Đi với Tolstoi quả thật không dễ tí nào, bởi vì ông vừa cầu toàn đến cực đoan, lại vừa có vẻ tiền hậu bất nhất đến tùy tiện. Ông tựa như một người dẫn đường chỉ lối cho nhân quần mà lại vừa một tay vẫy gọi, hối thúc mọi người đi và đi không ngơi nghỉ, không dừng lại ở đâu trên con đường đã được xác định cho đến đích cuối cùng, đến ngày mai tươi sáng của cả loài người, nhưng bằng tay khác lại níu kéo, thúc đẩy cũng những người ấy mau mau quay gót trở lại ngày hôm qua, thậm chí hôm kia của lịch sử nhân loại. Là như thế thái độ của Tolstoi đối với phạm trù “tiến bộ lịch sử”.
Ông công nhận có sự tiến bộ ấy, từ “tiến bộ” (progress) là một trong những từ gốc ngoại hiếm hoi mà ông dùng không theo nghĩa mỉa mai. Nhưng Tolstoi nhìn thấy sự vận động đi lên của nhân loại chỉ trong lĩnh vực đạo đức – tinh thần và phủ nhận nó trong lĩnh vực mà ai ai cũng cho là thiết yếu bậc nhất cho hạnh phúc của loài người và gửi biết bao hy vọng nồng cháy vào đấy – tiến bộ khoa học – công nghệ. Sống trong thời đại khoa học và công nghệ lên ngôi, Tolstoi không ngừng bày tỏ niềm hoài nghi sâu sắc về tính hữu ích và cần thiết của nhiều ngành khoa học đang thịnh phát: nào hóa học, nào sinh học, nào địa chất học, nào thiên văn học, không nói đến những ngành khoa học xã hội mà ông cho là chỉ có hại: luật học, kinh tế chính trị học, khoa học quân sự, khoa học tài chính, v.v…; ông chế diễu chua cay những thành tựu mới nhất của công nghệ: đường sắt, điện tín, điện ảnh, hàng không, bất chấp sự có lợi đập vào mắt của chúng…
Cũng một lập trường bài bác như thế Tolstoi – bậc vương giả trong sáng tạo nghệ thuật đã chối từ những kiệt tác của chính mình – bày tỏ đối với sự phát triển của văn học – nghệ thuật thời ông. Những tìm tòi cách tân của Baudelaire và Verlaine, Beethoven và Wagner đều bị ông chê bai, cho là sự cầu kỳ rởm, sự lấy hình thức lạ mắt lạ tai che giấu cái nội dung nghèo nàn, kém ý nghĩa. Trong chuyên luận “Nghệ thuật là cái gì?” Tolstoi đem đối lập một bản xônát rất bác học của Beethoven với một bài hát đơn sơ của những phụ nữ nông dân ở quê ông và cương quyết khẳng định giá trị và sự hữu ích của cái sau so với cái trước. Ông cũng hạ bệ không nể nang nhiều thần tượng văn hóa của quá khứ.
Trong bài viết về Shakespeare, ông so sánh vở “Vua Lia” của nhà soạn kịch vĩ đại này với một vở kịch khuyết danh cùng một nội dung được viết trước nó và lại tuyên bố: vở kịch ấy hay hơn kịch của Shakespeare nhiều. Bằng những sự thách thức công luận như thế (chúng tất nhiên được các đối thủ của ông khai thác triệt để) Tolstoi đã tự tạo ra cho mình tiếng xấu như là “một trí tuệ còn bán khai”, một kẻ thù của văn hóa và văn minh hay đơn thuần một người phát ngôn của hệ tư tưởng thủ cựu hẹp hòi của tầng lớp nông dân gia trưởng đang rút khỏi vũ đài lịch sử. Thành thử không mấy người, ngay trong giới văn học – nghệ thuật, chịu khó lắng nghe tiếng nói của Tolstoi, nhưng ai chịu khó lắng nghe, như chẳng hạn nhà văn Pháp Romain Rolland (1866-1944), thì thu hoạch được nhiều và cho cả đời. Năm 1887, trả lời thư của người thanh niên Rolland thắc mắc vì sao Tolstoi lại phủ nhận khoa học và nghệ thuật, Tolstoi giải thích:
“Tại sao lại xảy ra cái việc là có những kẻ mất trí đến mức dám phủ nhận tính hữu ích của khoa học và nghệ thuật? Có những người làm nghề thủ công, có những người canh tác đất, và không lọt vào đầu ai một ý nghĩ tranh luận về sự hữu ích của họ, và không một người lao động nào nảy ra trong đầu ý nghĩ cần phải chứng minh lao động của mình là hữu ích. Anh ta sản xuất, sản phẩm của anh ta là cần thiết và là phúc lợi cho những người khác. Họ sử dụng chúng và chẳng ai nghi ngờ về sự hữu ích của chúng và lại càng chẳng ai chứng minh điều đó.
Những người làm khoa học và nghệ thuật cũng ở trong những điều kiện như thế. Thế thì tại sao lại xảy ra cái chuyện là có những người bằng mọi sức lực cố gắng chứng minh sự hữu ích của mình?
Vấn đề là ở chỗ những nhà khoa học và nghệ sĩ chân chính không chiếm hữu cho mình bất kỳ một quyền lợi nào; họ cống hiến những sản phẩm của lao động nơi họ; những sản phẩm ấy tỏ ra hữu ích, và chúng tuyệt không cần đến những quyền và những chứng minh nào đó xác nhận quyền tồn tại của chúng. Nhưng tuyệt đại đa số những người tự xưng là những nhà khoa học và nghệ sĩ biết rất rõ rằng những gì họ làm ra không xứng đáng được người đời sử dụng, và đấy là nguyên nhân duy nhất vì sao họ lại cố gắng đến thế – tựa như các linh mục của mọi thời đại – chứng minh cho bằng được rằng hoạt động của họ là không thể thiếu cho hạnh phúc của nhân loại.
Khoa học chân chính và nghệ thuật chân chính muôn thuở tồn tại và sẽ tồn tại muôn thuở, tựa như tất cả các dạng thức khác của hoạt động con người và không thể và sẽ là vô bổ tranh luận hay chứng minh về sự cần thiết của chúng.
Cái vai trò giả dối hiện nay của khoa học và nghệ thuật trong xã hội của chúng ta phát sinh từ chỗ những người gọi là có học, đứng đầu là các nhà khoa học và nghệ sĩ, hợp thành một đẳng cấp đặc quyền đặc lợi, tựa như các vị linh mục. Và đẳng cấp này có tất cả những khuyết tật vốn là thuộc tính của mọi đẳng cấp. Khuyết tật của đẳng cấp là nó làm bẩn và hạ thấp cái nguyên tắc mà vì nó đẳng cấp ấy được tổ chức. Thay vì tôn giáo chân chính ta có ngụy tôn giáo. Thay vì khoa học thực thụ – ngụy khoa học. Cũng là như thế với nghệ thuật. Khuyết tật của đẳng cấp còn ở chỗ nó gây áp lực đối với quần chúng và ngoài ra còn cướp đi nơi họ cái mà trước kia được dự định quảng bá giữa họ”.
Tolstoi đã không sống đến ngày khoa học và nghệ thuật bị nhà nước hay các tập đoàn tư bản lũng đoạn mua, những người làm khoa học và nghệ thuật trở thành những kẻ làm thuê, ngoan ngoãn thực hiện mọi đơn đặt của những thế lực ấy. Ông sẽ nói gì trước những bom nguyên tử, bom hóa học, bom vi trùng, trước vô vàn những tượng, tranh, bài hát, trường ca và tiểu thuyết tôn vinh Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông và nhiều nhân vật lịch sử đáng chê trách khác? Và cả trước những thế giới ảo trên mạng Internet, những thử nghiệm nhân bản vô tính ngày nay? Hay trước công nghiệp điện ảnh Holiwood và nhạc pop mê hoặc khán giả, thính giả toàn thế giới?
Cương quyết không đồng tình với óc sùng bái khoa học, với niềm cả tin rằng khoa học sẽ khám phá mọi bí ẩn của thế giới, giải quyết mọi vấn đề của xã hội loài người, cùng với công nghệ đem đến cho nó hạnh phúc muôn đời, Tolstoi cũng trong thư này gọi niềm tin ấy là “một mê tín khổng lồ mà chúng ta đang rơi vào ngay sau khi giải phóng mình khỏi cái mê tín cũ vào nhà thờ”. Và ông đối lập cái mê tín ấy với sự minh triết mà con người cần phải hướng tới.
“Minh triết con người không nằm trong sự nhận thức các sự vật. Có hằng hà sa số những sự vật mà chúng ta không thể nhận biết. Minh triết không phải là làm sao biết được thật nhiều. Minh triết của con người ở sự nhận biết cái trật tự mà trong đó sẽ là bổ ích hiểu biết sự vật; nó tựu trung là năng lực phân bố những tri thức của mình cho thích ứng với độ quan trọng của chúng”. Và tiếp theo ông trình bày quan niệm của ông về cái khoa học và nghệ thuật mang trong mình minh triết cần thiết hơn cả cho con người: “…trong tất cả các khoa học mà con người có thể biết và cần biết, chính yếu nhất là khoa học về việc cần phải sống thế nào để làm thật ít điều ác và làm thật nhiều điều thiện; trong tất cả các nghệ thuật chính yếu nhất là nghệ thuật tránh cái ác và làm cái thiện một cách ít mất sức nhất. Nếu là thế, thì té ra, giữa các khoa học và nghệ thuật có tham vọng phụng sự hạnh phúc của nhân loại, cái khoa học quan trọng nhất và cái nghệ thuật quan trọng nhất không những không tồn tại, mà còn bị loại bỏ khỏi danh sách các khoa học và nghệ thuật”.
Dễ thấy rằng Tolstoi khẳng định – và ông sẽ kiên trì làm như thế – quyền ưu tiên của khoa học nhân văn so với khoa học tự nhiên và trong khoa học nhân văn – quyền ưu tiên của đạo đức học. Và trong bối cảnh của thế giới ngày nay, trước những hậu quả tiêu cực khủng khiếp của tiến bộ khoa học – công nghệ, trước sự suy thoái ghê gớm của đạo đức cá nhân và xã hội, sự ưu thắng hiển nhiên của cái ác dưới mọi biểu hiện, từ thô bạo nhất đến tinh vi nhất, từ lộ liễu nhất đến trá hình nhất và những thắng lợi còn quá đỗi nhỏ nhoi và không bền vững tí nào của cái thiện, lẽ nào có thể vẫn khăng khăng phủ nhận lẽ phải minh triết của Tolstoi?
Và đối chiếu những yêu cầu của Tolstoi đối với nghệ thuật (hiểu theo nghĩa rộng), trong đó yêu cầu chính là hết lòng phụng sự cái hữu thiện hữu đức, cái phù hợp với ý chí của Thượng Đế và lợi ích của cả loài người, với con đường mà nghệ thuật thế giới đã đi trong hơn một thế kỷ qua – con đường của sự hoặc biến mình thành công cụ phục vụ các chính thể chiến thắng, trong đó có chính thể khó đối đầu hơn cả của xã hội đại chúng; hoặc ngạo nghễ hay đau khổ khép mình trong tháp ngà của những tìm tòi hình thức, những cách tân vì cách tân dẫn đến vị trí quá ư không hệ trọng của nghệ thuật trong thế giới ngày nay – lẽ nào lại cũng không thừa nhận là chính đáng và nhìn xa thấy trước những khuyến dụ và cảnh báo xưa cũ của Tolstoi và không phải một mình ông?
Trong di sản mênh mông của Tolstoi có một bài viết ngắn – “Chuyện trò với thiếu nhi về những vấn đề đạo đức” (1907). Theo đề nghị của một tờ báo, Tolstoi chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy đạo đức học cho trẻ em ở độ 10 tuổi đời. Ông tập hợp những danh ngôn của các nhà hiền triết thuộc mọi dân tộc và thời đại, phân bố chúng thành khoảng 20 mục và mỗi ngày đọc và giải thích cho trẻ một danh ngôn theo thứ tự mục. Trong bảng thứ tự ấy, mục số một nói về Thượng Đế. Tolstoi dẫn làm thí dụ một danh ngôn (nói đúng hơn một ngụ ngôn) như sau về Thượng Đế:
“Một hôm đàn cá dưới sông nghe thấy người nói: cá chỉ có thể sống được trong nước. Và lũ cá bắt đầu hỏi nhau: nước là gì? Và không một con cá nào trong sông trả lời được nước là gì. Khi ấy một con cá già thông minh nói rằng ngoài biển có một con cá anh minh vô cùng. Cái gì nó cũng biết. Chúng ta hãy tìm đến nó hỏi: nước là gì? Thế là đàn cá bơi ra biển, tìm đến con cá già anh minh và hỏi: làm thế nào để chúng tôi biết được nước là gì? Con cá anh minh nói: các bạn không biết nước là gì vì các bạn sống trong nước. Ta chỉ biết được nước là gì khi ta đã ra khỏi nước và cảm thấy không có nó không sống được. Chỉ khi ấy ta mới hiểu tất cả chúng ta đều sống nhờ nước và không có nước thì không có sự sống.
Cũng là như thế với loài người, khi họ nghĩ rằng họ không biết Thượng Đế là gì. Chúng ta sống trong Thượng Đế và nhờ có Thượng Đế và chỉ cần lìa rời Thượng Đế là chúng ta tức khắc thấy khó sống, y như cá không có nước”.
Không biết Tolstoi vay mượn truyện ngụ ngôn này từ đâu, hay ông tự sáng tác, có điều nó truyền đạt rất xác thực quan niệm của ông về Thượng Đế. Thượng Đế của Tolstoi là bản nguyên và nguồn gốc của tất cả, không có Thượng Đế thì không có cả loài người với đạo đức của nó. Đạo đức học Tolstoi vì thế trước hết là đạo đức học Thượng Đế luận, tức là nó xuất phát từ một thế giới quan tôn giáo độc thần, và đây là nét khác biệt cơ bản giữa nó với các kiểu đạo đức học vô thần, hay dùng thuật ngữ của Tolstoi, đạo đức học xã hội luận.
Như ta biết, trên thế giới chỉ tồn tại ba tôn giáo độc thần: đạo Do Thái, đạo Hồi và đạo Kitô. Tolstoi lúc nào cũng khẳng định rằng ông là người theo đạo Kitô, nhưng quan niệm về Thượng Đế của ông rất khác với học thuyết về Thiên Chúa trong đạo Kitô thực định. Tolstoi bác bỏ cả hai tín điều cốt lõi của tôn giáo này: tín điều về Chúa ba ngôi và tín điều về sự nhập thể của Chúa thành Giêsu Kitô lịch sử. Như đã nói, với Tolstoi Kitô chỉ là người, chứ không phải Thần – Nhân, Kitô đã sinh ra, đã sống và đã chết như một con người, không có sự phục sinh nào hết. Cho nên cũng không thể có cái chuyện là Kitô sẽ giáng thế lần thứ hai để phán xử loài người, cả những người đang sống lẫn những người đã chết mà tất cả sẽ được phục sinh, để trị vì trên thế gian này và biến cải nó thành một “bầu trời mới và trái đất mới”. Tất cả những yếu tố siêu nhiên và thần bí đều bị loại bỏ khỏi học thuyết tôn giáo của Tolstoi. Thượng Đế của Tolstoi vì vậy cũng không phải là Đấng Sáng Thế và thế giới không phải là vật tạo của ngài; Tolstoi không ngần ngại chế nhạo huyền thoại về cuộc sáng thế sáu ngày trong kinh Cựu Ước, mà cũng như kinh Tân Ước ông đọc trong nguyên tác, bằng tiếng Do Thái cổ và Hy Lạp cổ. Ông cũng bác bỏ không thương tiếc học thuyết Kitô giáo về công cuộc chuộc tội cứu thế của đức Kitô. Một Thiên Chúa đòi hỏi cái chết của con mình là một Thượng Đế quá ác – ông phê phán, nói theo các nhà khai sáng thế kỷ XVIII. Và trong nhân loại không ai có thể chuộc tội được cho người khác, cứu vớt người khác, việc ấy từng người phải làm cho mình – Tolstoi khẳng định, đã không dựa vào ý kiến của bất cứ ai.
Vậy Tolstoi khẳng định những gì chính diện về Thượng Đế của mình và tại sao ông vẫn xem mình là tín đồ của đạo Kitô? Tolstoi không để lại một tác phẩm nào trình bày có hệ thống những luận điểm thần học của mình, nhưng đây, một năm trước khi qua đời ông diễn đạt tín niệm của ông về Thượng Đế như sau: “Tôi biết sự sống chân chính của tôi không ở trong thân xác tôi, mà ở cái bản nguyên tinh thần tách biệt với tất cả mà tôi ý thức được bằng toàn bộ sinh linh mình và gọi là linh hồn. // Tôi cũng biết bản nguyên tinh thần ấy không chỉ ở trong tôi, mà ở tất cả các vật sống khác. // Cái bản nguyên tinh thần ấy, bị chia cắt bởi thân thể của các vật sống, tôi còn nhận thức được ở trong chính nó, không liên quan với cái gì, không bị giới hạn bởi cái gì, và tôi gọi cái tâm thức vô giới hạn của tất cả ấy là Thượng Đế.” (“Tự nhủ”, 1909).
Một định thức như thế về Thượng Đế có mờ nhạt, thiếu cụ thể và thiếu sức hấp dẫn quá không so với các giáo thuyết độc thần thực định, nhất là giáo thuyết của đạo Kitô? Tolstoi am tường các nền thần học đặc biệt nền thần học, Kitô giáo rất phong phú và tinh vi, có lịch sử ngàn đời với nhiều tên tuổi và trường phái. Không thỏa mãn với chúng, tìm thấy trong chúng quá nhiều yếu tố mà trí tuệ lành mạnh của con người không thể tiếp nhận, ông xây dựng những luận điểm của mình bằng cách chắt lọc những gì là chung trong những học thuyết tôn giáo ấy, những gì mà cả những người theo các tôn giáo khác hoặc không theo tôn giáo nào cả cũng có thể chấp nhận và loại bỏ những gì là riêng biệt của từng tôn giáo và khó chấp nhận đối với những ai không theo tôn giáo ấy. Đây là cách làm không phải của một mình Tolstoi, mà của nhiều nhà tư tưởng mong muốn thống hợp tất cả những tín ngưỡng mâu thuẫn lẫn nhau của loài người, kiến tạo một tôn giáo thống nhất cho toàn thế giới. Tolstoi thích dẫn lời của Kant, triết gia duy nhất được ông gọi là “thiên tài”: “Có nhiều tín ngưỡng, nhưng tôn giáo thì chỉ có một”, và điều mà Kant đã chỉ ra như một ý tưởng, Tolstoi cố biến thành hiện thực.
Kant đã ảnh hướng tới Tolstoi sâu sắc có khi còn hơn cả Rousseau. Từ trẻ Tolstoi đã đọc “Phê phán lý tính thuần túy” và tâm đắc với tư tưởng cơ bản của sách ấy: bằng lý trí không thể chứng minh và cũng không thể phủ nhận sự tồn tại của Thượng Đế. Vấn đề có hay không có Thượng Đế thuộc quyền giải quyết của cấp khác, mà Kant gọi là “lý tính thực tiễn”, tức là đời sống đạo đức và tâm linh của con người. Thuyết bất khả tri của Kant đã làm bệ đỡ cho tư tưởng Tolstoi không chỉ trong những tìm kiếm tôn giáo – tín ngưỡng, mà còn trong nhiều lĩnh vực khác(1). Trở về với định thức vừa được dẫn của Tolstoi, ta thấy ông rõ ràng thấm nhuần hay ít nhất đồng thuận với Kant khẳng định chỉ có thể nhận biết Thượng Đế bằng toàn bộ sinh linh con người chứ không phải bằng lý trí (ngay trong “Anna Karenina” ông đã mượn lời của Levin nói rằng lý trí chỉ có thể phát hiện ra luật đấu tranh vì sinh tồn) và thứ hai, Thượng Đế, mà không có Ngài loài người không thể sống, vừa tồn tại trong mọi sinh thể vừa tồn tại ở trong mình, không liên quan với cái gì và không bị giới hạn bởi cái gì. Về cái không có giới hạn không thể nói một cái gì xác định, cho nên Tolstoi luôn luôn kiệm lời và hết sức dè dặt mỗi khi nói về Thượng Đế, và thái độ bài bác của ông đối với thần học Kitô giáo phải được giải thích từ quan niệm rằng không được bàn luận nhiều về cái bất khả tri (“Về cái gì không thể nói, về cái đó phải im lặng” – một triết gia thế kỷ XX, cũng thấm nhuần Kant, khẳng định). Song Tolstoi vẫn cam đoan: có một Thượng Đế tồn tại ở trong mình, để không ai lẫn lộn ông với những nhà phiếm thần luận (pantheistes) quan niệm rằng cái tuyệt đối, cái vô hạn tồn tại trong cái tương đối, cái hữu hạn và tự bộc lộ qua nó.
Tránh những định danh cụ thể về Thượng Đế, Tolstoi tuy nhiên tiếp nhận hai định thức tối quan trọng trong thần học Kitô giáo – Thượng Đế là thể hoàn hảo tuyệt đối và Thượng Đế là tình yêu. Khát vọng hoàn hảo, theo Tolstoi, (và đây là tư tưởng tâm huyết được ông nuôi dưỡng từ thời niên thiếu) là đặc tính bản thể của con người, thôi thúc nó tìm kiếm và tìm kiếm cái hoàn hảo tuyệt đối, cái hoàn hảo tuyệt đối ấy chỉ có trong Thượng Đế và là Thượng Đế; trong quan hệ với con người cái hoàn hảo tuyệt đối ấy là lý tưởng mà con người sẽ không bao giờ đạt tới, nhưng hướng tới nó, nỗ lực nhích lại gần với nó là nhiệm vụ và ý nghĩa của cuộc sống con người. Tolstoi tôn Kitô là Thầy trước tiên bởi vì trong những người sáng lập ra những tôn giáo lớn của thế giới, chỉ Kitô mới chỉ ra cho loài người lý tưởng hoàn hảo ấy và kêu gọi hướng tới nó: “Các người hãy hoàn hảo như Cha của các người trên trời hoàn hảo”. Định thức thứ hai về Thượng Đế, cũng lấy từ kinh Tân Ước: “Thượng Đế (Thiên Chúa) là tình yêu” được Tolstoi kiến giải như sau: chúng ta, những con người, chỉ thấu hiểu được cái mà chúng ta yêu quý. Khi chúng ta yêu nhau và yêu cuộc đời, yêu mọi vật xung quanh ta, chúng ta cảm thấy có Thượng Đế ở trong ta, và chúng ta càng yêu mến Thượng Đế hơn thì càng hiểu biết Ngài sâu sắc hơn và thấu đáo hơn. Nếu thần học Kitô giáo dạy con người yêu và sợ Thượng Đế, thì Tolstoi cương quyết gạt bỏ yếu tố sợ. Thượng Đế của đạo Kitô có thể và đã từng nổi giận và ruồng bỏ, trừng trị loài người, Thượng Đế của Tolstoi bao giờ cũng là người cha yêu thương và chăm sóc cho mọi sinh linh như nhau và ý nguyện duy nhất của Ngài là sao cho những con người yêu thương nhau như Ngài thương yêu họ. Tolstoi nói: luật yêu thương là luật duy nhất mà Thượng Đế đặt ra cho loài người.
Tất cả những chân lý có vẻ quá giản dị ấy, mà Tolstoi cứ nói đi nói lại, xem ra ai ai có lương tri trên thế gian này cũng có thể tán thành, và rất dễ thắc mắc tại sao ông lại không biết chán lặp lại mình như thế, nếu không để ý tới việc là ông không biết mệt mỏi nhắc lại những chân lý ấy cùng với một chân lý (hay yêu cầu) khác, không tách rời (nó thì được Tolstoi tiếp nhận toàn bộ từ đạo Kitô) “Hãy yêu Thượng Đế và đồng loại”. Trật tự đối tượng tình yêu ở đây là vô cùng quan trọng. Không chỉ “thương người như thể thương thân” mà “yêu (kính) ông Trời hơn mình và yêu (thương) người khác như mình”. Chỉ yêu thương người khác như yêu thương mình là không đủ, là thiếu căn cứ và do đó kém tính hiện thực. Cùng với nhiều nhà tư tưởng tôn giáo khác (trong đó lại phải nhắc đến Dostoievski và một loạt triết gia Nga vãn sinh, tất cả đều là những người con tinh thần của Dostoievski và Tolstoi) ông không ngớt khẳng định một điều mà xem ra đến giờ vẫn chưa lọt tai quá nhiều cư dân trên hành tinh này: không yêu kính Thượng Đế thì loài người cũng không thể yêu thương nhau thật sự. Chính thấu triệt chân lý ấy mà Vladimir Soloviev đã buông một câu bông lơn nặng trĩu ý tứ: “Tất cả chúng ta đều từ khỉ mà ra, vì vậy phải xả thân vì nhau”. Còn Tolstoi thì đã dành ba chương trong kiệt tác nghị luận “Vương quốc của Thiên Chúa ở trong ta” (được đưa vào sách này) để chứng minh rằng không thể có tình nhân loại chính thực mà lại không có ý thức đi trước rằng tất cả mọi người đều là con của một Thượng Đế; thiếu ý thức thường trực ấy thì con người sẽ bị cám dỗ bởi những lợi ích cục bộ (đảng phái, giai cấp, dân tộc, quốc gia…) đối nghịch lẫn nhau, sẽ đấu tranh vì chúng, phản bội tình nhân loại và sẽ phải trả giá cho sự phản bội ấy bằng việc bị những kẻ gian ác nắm quyền lực nhân danh những lợi ích cục bộ được linh thiêng hóa ấy biến họ thành những công cụ vô hồn để thực hiện những tham vọng vị kỷ và ác độc của chúng.
Như vậy có thể nói thần học (nó cũng là nhân học) của Tolstoi khẳng định ba giá trị cơ bản và tuyệt đối: Thượng Đế – con người – loài người được xắp theo hình tam giác, đỉnh là Thượng Đế, hai góc dưới đồng đẳng là con người và loài người, còn các cấp trung gian giữa con người cá thể và loài người chỉ là những giá trị tương đối và rất tương đối mà con người không được tuyệt đối hóa để không mất đi nhân cách và nhân phẩm của mình.
Theo thiển kiến của chúng tôi, nhân học thượng đế luận của Tolstoi là một cống hiến quý báu vào kho tàng minh triết của loài người. Nó có những ưu điểm rõ rệt so với nhiều học thuyết triết học nhân văn khác, cũng tôn giáo luận, nhưng hoặc có khuynh hướng biện chính và nể trọng những cấu tạo lịch sử như giáo hội, nhà nước, pháp quyền mà trong thực tế gián cách con người với Thượng Đế và thậm chí lấy mình thay thế Thượng Đế (Soloviev) hoặc hầu như đồng đẳng hóa con người với Thượng Đế, giả định ở nó những năng lực chỉ có ở Thượng Đế (Berdiaev). Thế nhưng nhân học thượng đế luận ấy có toàn bích hay không, có đáp ứng tất cả những nhu cầu, khát vọng bản thể của con người hay không? Là thế nào thái độ của nhà tư tưởng Tolstoi đối với khát vọng bất tử của con người? Là thế nào vị trí cần có của cái đẹp trong văn hóa loài người? Đáp án của Tolstoi cho những câu hỏi ấy, bị ngay những người cùng thời có thiện cảm với ông cho là không thỏa đáng, bây giờ cũng khó có thể xem là thỏa đáng hoàn toàn. Vấn đề về sự bất tử của linh hồn con người được Tolstoi bàn thảo trong khảo luận triết học “Về cuộc sống” theo tinh thần của Kant (không phải ngẫu nhiên mà một trích đoạn dài từ “Phê phán lý tính thực tiễn” được dẫn làm đề từ cho sách này). Tolstoi nói: chúng ta không biết được chúng ta từng là cái gì trước khi bước vào cõi đời này và sẽ là cái gì sau khi rời bỏ nó. Nhưng chúng ta biết trong ta có phần xác và phần hồn, phần xác theo quy luật tự nhiên tăng trưởng, đạt mức độ phát triển cao nhất, rồi già yếu, chết đi và phân hủy, nhưng phần hồn thì không phụ thuộc vào phần xác và không tuân theo quy luật ấy, cho nên nó sẽ không chết.
Sau này ông sẽ nói thêm là nó sẽ trở về với khởi nguyên của mình – Thượng Đế. Nhưng trở về bằng những con đường như thế nào, bởi vì các linh hồn con người là những ngã thể có quan hệ khác nhau với Thượng Đế và Thượng Đế cũng không thể đối xử một cách không phân biệt với các ngã thể ấy. Và còn quan trọng hơn, là thế nào quan hệ giữa linh hồn và thân xác, lẽ nào thân xác không có giá trị bản thể nào và chỉ là chướng ngại vật cản trở linh hồn con người tái hợp với những linh hồn khác và với Thượng Đế, như Tolstoi về già thiên quan niệm? Giáo thuyết của đạo Kitô thực định trong vấn đề này xem ra tính nhiều hơn đến khát vọng muôn thuở cháy bỏng của nhân loại về sự bất tử cho cả linh hồn lẫn thân xác. Với cái đẹp, mà rõ ràng không có nó thì con người và loài người cũng không sống được, Tolstoi, như đã nói, cũng chưa tìm ra cách tiếp cận thỏa đáng. Một cách quá đơn giản ông đồng nhất cái đẹp với cái thiện, cho rằng chỉ cái gì là thiện thì mới là đẹp, không dành cho cái đẹp một giá trị và vị trí độc lập nào. Thực ra ở đây ông đã quá thấm nhuần tinh thần của đạo Kitô nguyên thủy đã ra đời trong lòng nền văn minh đa thần giáo Hy – La và trong cảm hứng hướng tới cái chí thiện chí thánh đã bài bác sự sùng bái cái đẹp là đặc trưng cho nền văn minh ấy.
Trên đây chỉ là hai thí dụ, mà có thể dẫn ra nhiều hơn nữa, về sự bất toàn của nhân học tôn giáo luận Tolstoi. Nhưng bất toàn là thân phận của con người, và Tolstoi luôn luôn nói rằng ông có thể sai lầm trong những tìm kiếm của mình, và mong đợi sự bổ sung và uốn nắn của những người khác, nhất là của hậu thế mà ông, một người theo chủ nghĩa lạc quan lịch sử thực thụ, gửi gắm nhiều kỳ vọng. Cho nên, đáp ứng với nhiệm vụ của sách này, chúng ta sẽ không dừng lại nữa ở những mặt yếu và hạn chế của nhà tư tưởng Tolstoi, mà sẽ cố tập trung tìm ra (dĩ nhiên còn rất xa mới đầy đủ) những gì có sức sống trường cửu, những gì ngày nay vẫn đáng quý trọng và học tập ở ông.
Không đi sâu xem xét những quan điểm phủ định của Tolstoi về nhà nước / chính phủ, so sánh chúng với những luận điểm tuy có những nét khác nhau nhưng đều khẳng định của các nhà tư tưởng châu Âu thời mới từ Machiavelli đến Spencer, chỉ cần nói rằng Tolstoi am hiểu, nhưng không đồng tình với chúng. Ông không chia sẻ tí nào cả thuyết “khế ước xã hội” của Rousseau. Ông cũng không cho là cần thiết lắm phải khảo cứu thật sâu và đa diện lịch sử hình thành và phát triển của nhà nước, như Kropotkin đã làm, bởi vì theo ông, cho dù nguồn gốc và lịch sử của nhà nước có là thế nào đi nữa, thì trong hiện tại vẫn chỉ có thể có một ý kiến đúng đắn về nhà nước – nó là cái họa lớn và ngày càng to lớn hơn cho mọi người, mọi nhân dân / dân tộc và cả loài người. Trong thái độ đối với nhà nước, Tolstoi gần gũi với một triết gia cùng thời mà ông không ưa thích tí nào – Nietzsche (rất có thể bởi vì cả hai đều là những nghệ sĩ lớn, viết theo linh tính nhiều hơn là lý tính).
Như ta biết, Nietzsche gọi nhà nước là “con quát vật máu lạnh”, dửng dưng tuyệt đối với mọi tình cảm và lý tưởng của con người và chỉ biết chăm lo cho sự tồn tại và bành trướng của mình. Y như Nietzsche, Tolstoi quan niệm nhà nước là môi trường hoạt động của những kẻ vô tài thất đức nhất trong xã hội, những kẻ không có khả năng và không muốn làm những công việc tử tế. Song khác với Nietzsche, Tolstoi đồng thời nhấn mạnh: ngay từ đầu những kẻ thiết lập chính quyền nhà nước là những kẻ đã lười lao động lại gian ác, cho nên chúng đã dùng đủ mọi mánh khóe và cả bạo lực trực tiếp để áp đặt quyền lực của mình cho những người lao động luôn luôn bận rộn với công việc đấu tranh với thiên nhiên để nuôi sống mình và gia đình của mình (Xem bài “Về ý nghĩa của cách mạng Nga” được đưa vào sách này).
Ta sẽ không bàn, Tolstoi có chuẩn xác hay không với quan niệm đơn giản như thế về bản chất của nhà nước và quyền lực nhà nước (ông luôn luôn nói: mọi chân lý đều giản dị, ở đâu có sự rắc rối phức tạp – ở đó không có chân lý và lẽ phải). Và cũng vị tất cần thiết, để bênh vực Tolstoi và minh oan cho ông, nhắc đến những tội ác trời không dung đất không tha của các kiểu nhà nước độc tài trong một thế kỷ qua, từ ngày ông ra đi. Hãy trở lại với tư tưởng của ông về tội lỗi tương hỗ của những kẻ thống trị và những người bị thống trị. Với những kẻ thống trị thì xem ra sự việc đã rõ. Nhưng tội lỗi của những người bị thống trị thì ở đâu, theo Tolstoi? Thứ nhất, ở việc họ đã thừa nhận quyền lực của những kẻ thống trị, và một khi đã thừa nhận thì xem là nghĩa vụ của mình phục tùng nó, hệ quả là đã để cho nó biến mình thành những công cụ thực hiện ý chí của nó. Thứ hai, bị cám dỗ và mua chuộc bởi cái quyền lực ấy, nhiều người trong họ hợp tác với nó, can dự vào hoạt động của nó và trong thực tế trở thành những kẻ đồng lõa với nó. Thứ ba, khi không chịu đựng được quyền lực ấy, thì họ nổi dậy lật đổ nó, lấy bạo lực chống lại bạo lực, đi ngược lại điều răn của Chúa để rốt cuộc chuốc lấy một chính quyền còn bạo hành hơn, tàn ác, bất nhân và toàn trị hơn, như lịch sử loài người cho thấy.
Đọc Tolstoi, không thể không thấy ông rất nhất quán trong lập trường vô chính phủ tôn giáo luận, hay nói sát hơn, Kitô luận của mình. Lên án nhà nước quân chủ chuyên chế, như ở nước ông và các nước phương Đông khác (đáng để ý là Tolstoi quy nước Nga về phương Đông!), ông đồng thời, khác hẳn với phe “thân phương Tây” càng ngày càng phát huy ảnh hưởng trong xã hội Nga, không gửi gắm một tí hy vọng nào vào các nền dân chủ tư sản hay đại chúng của phương Tây. Chúng vẫn là những hình thức thực hiện quyền lực của những người này đối với những người kia, mà mọi quyền lực đều không tách rời với bạo lực và cưỡng bức và mâu thuẫn không thể dung hợp với bản chất và sứ mệnh của con người như là những người con tự do của Thượng Đế. Tự do của con người trước hết là tự do khỏi quyền lực của nhà nước. Muốn có tự do thì con người phải biết sống không có nhà nước và không cần đến nhà nước. Và Tolstoi hoàn toàn tin loài người có thể sống như thế và đây là nội dung cơ bản của cái “đề án” mà Tolstoi kiên trì khuyến nghị mọi người. Nhưng nhà nước, vì lợi ích sinh tồn, sẽ không buông thả các thần dân hay công dân của mình, sẽ không dừng lại trước bất kỳ cái gì để giữ họ dưới sự điều khiển và trong vòng cương tỏa của mình – cái đó Tolstoi cũng quá biết và ông kiến nghị hẳn một chương trình hành động hướng tới xóa bỏ hoàn toàn nhà nước (chính phủ) và mọi quyền lực của con người đối với con người.
*
* *
Học thuyết không chống lại cái ác bằng vũ lực của Tolstoi là một bộ phận hữu cơ của một học thuyết bao trùm hơn về những điều kiện cần thiết để kiến tạo trên toàn thế giới “vương quốc của hạnh phúc chung”. Nó xuất phát từ một nhận thức tôn giáo cơ bản được nhắc lại trong thư vừa dẫn: tất cả mọi người đều là con của Thượng Đế và họ phải đối xử với nhau với tư cách ấy. Trong một bức thư khác, gửi một viên chức Mỹ về vấn đề giáo dục tôn giáo cho trẻ em, Tolstoi viết: “Sự tôn thờ đích thực Thượng Đế chỉ có thể là sự tôn thờ Thượng Đế ở trong ta và trong những người khác. Tôn thờ Thượng Đế ở trong mình tức là hình dung ra cho mình và giữ trước mình hình ảnh của thể hoàn hảo tối cao của cái thiện và cố gắng đạt tới độ gần nhất với thể hoàn hảo ấy trong cuộc sống của mình. Còn sự tôn thờ Thượng Đế trong những người khác thì tựu trung là thừa nhận ở trong từng người một cũng một Thượng Đế mà ta ý thức được trong ta, do đó mà cố gắng đoàn kết với từng người; mà sự đoàn kết ấy thì chỉ thực hiện được bằng tình yêu thương”. Cuối thư, ông dặn dò: “Khi tiếp xúc với một người, bất kỳ người ấy là ai, hãy đừng quên rằng trên đời không có cái gì cao cả hơn và quan trọng hơn cái có ở trong con người ấy. Vì vậy, dù những việc làm của người ấy có xấu xa đến đâu, bản thân con người ấy, dù anh ta có là ai, phải được ta tôn kính như là Thượng Đế và yêu thương như là bản thân mình (chúng tôi nhấn – PVC) và vì thế ta phải cố gắng làm cho người ấy cái mà ta mong muốn cho mình, giả dụ ta ở trong vị trí của người ấy”.
Từ một nhận thức kiên định như thế, dễ hiểu là Tolstoi không chấp nhận bất kỳ một sự xét xử nào và một hình phạt nào đối với các tội nhân. Từ nhận thức ấy mà sinh mạng con người được tuyên bố là giá trị cao nhất trong thế giới này: “Trên thế gian, chỉ có một vật thiêng liêng không thể hồ nghi – con người, và một đối tượng duy nhất mà con người không được làm xúc phạm và làm ô uế – ấy là con người…” Người có đức tin tôn giáo chân chính “sẽ không khi nào xúc phạm, làm ô uế Thượng Đế ở trong mình và trong đồng loại của mình, và lại càng không xâm hại đến cái mà những người tin vào giới luật của tình yêu coi là vật thiêng cao nhất và duy nhất – mạng sống của người khác (chúng tôi nhấn – PVC)” (“Chỉ một giới luật”, 1909).
Nếu là thế thì bất kỳ một sự xâm hại và sát hại cuộc sống con người nào, dù vì những mục đích nào đi nữa, cũng không thể được chấp nhận. Chân lý tôn giáo này quá hay bị lãng quên, cho nên Tolstoi cứ nhắc đi nhắc lại không biết mệt mỏi. Một chân lý tôn giáo nữa, làm nền tảng cho học thuyết không chống cự cái ác bằng vũ lực của Tolstoi là: cái thiện chỉ là cái thiện khi nó là cái thiện cho tất cả mọi người không có ngoại lệ, nhưng cái ác là cái ác, nếu nó là cái ác dù chỉ cho một người. Về mặt đạo lý, quan điểm này là không thể bác bỏ, nhưng trong thực tế thì không mấy người thấu triệt nó, lấy nó làm kim chỉ nam cho hành động bởi vì người đời quá quen đồng nhất những lợi ích cá nhân hay cục bộ của mình với cái thiện và những gì đối nghịch với chúng với cái ác. Do đó mà cái ác, được quan niệm là cái thiện, mới ngự trị trong lịch sử loài người. Và cái ác đẻ ra cái ác, bạo lực đẻ ra bạo lực, máu gọi máu – vì thế minh triết loài người từ lâu đã nhận ra rằng để loại trừ cái ác phải lấy thiện trả ác, lấy nhân nghĩa thắng bạo tàn.
Thế thì học thuyết không chống cự cái ác bằng vũ lực của Tolstoi có cống hiến gì mới và quý cho cái minh triết chung ấy không? Để trả lời câu hỏi này, sẽ là bổ ích nhớ lại cuộc tranh luận dai dẳng giữa Tolstoi với những người cùng chí hướng với ông về những giới hạn của sự không chống cự cái ác. Trao đổi ý kiến với mục sư Mỹ Adin Ballou (mà tên tuổi chúng tôi đã nói đến), Tolstoi khẳng định không được dùng bạo lực chống lại bất cứ ai, ngay cả những người điên hay những kẻ say rượu hành hung. Ballou bắt bẻ Tolstoi: “Ông nói: một tín đồ thực thụ của đạo Kitô sẽ luôn luôn chọn thà bị kẻ điên giết, còn hơn tước đoạt tự do của y. Theo phép ngoại suy, tôi cho rằng ông phải công nhận là một tín đồ Kitô giáo chân chính cái người mà, trông thấy tên điên giết trước mắt mình vợ mình, con mình và những người bạn tốt nhất của mình, sẽ bình thản quan sát tất cả cái đó thay vì bằng sức mạnh hạn chế tự do bệnh hoạn của bệnh nhân mà không làm hại cho hắn? Điều răn nào của Kitô linh thiêng hóa bệnh điên? Hay là lý trí được khai sáng, lòng nhân đạo và tình bác ái xui khiến một thái độ như thế đối với những người mắc bệnh tâm thần?”. Tolstoi đã đáp trả như sau (xin phép dẫn một đoạn trích dài):
“Tôi sẽ không làm cái việc phản bác những phản bác của tiên sinh – cách làm như thế sẽ không dẫn đến cái gì cả. Tuy nhiên cái đã được diễn đạt chưa đủ rõ ràng trong thư trước của tôi thì tôi phải minh xác để tránh sự hiểu lầm. Đó là về sự nhượng bộ. Tôi nói rằng sự nhượng bộ, không thể tránh khỏi trong thực tiễn, không thể được chấp nhận trong lý thuyết. Tôi hiểu như thế này: con người không bao giờ đạt được sự hoàn hảo mà chỉ đến gần với nó. Cũng như trong thực tại không thể kẻ một đường thẳng toán học và mọi đường kẻ chỉ là sự đến gần với đường thẳng, hệt như thế mọi mức độ hoàn hảo đạt được bởi con người chỉ là sự nhích lại gần với thể hoàn hảo của Cha, mà con đường đến với Người đức Kitô đã chỉ cho chúng ta. Vì vậy trong đời sống hiện thực mọi hành vi của một người hoàn hảo nhất và toàn bộ cuộc đời của anh ta sẽ luôn luôn chỉ là sự nhượng bộ trong thực tiễn – lực hợp thành giữa sự yếu đuối của anh ta và khát vọng đạt tới thể hoàn hảo. Và sự nhượng bộ như thế không phải là tội lỗi mà là điều kiện tất yếu của mọi cuộc sống Kitô giáo.
Nhưng sự nhượng bộ trong lý thuyết là một tội lỗi vĩ đại, một mưu đồ đánh thấp lý tưởng của Kitô hòng làm cho nó trở thành khả thi. Và tôi cho rằng một thoái nhượng lý thuyết như thế chính là sự chấp nhận bạo lực, cho dù đó là bạo lực thiện ý, đối với những người điên (rất khó định nghĩa chính xác thế nào là người điên). Không chấp nhận sự thoái nhượng ấy, tôi chỉ đánh liều cuộc sống của mình hay của những người khác mà có thể bị kẻ điên giết chết; nhưng cái chết sớm muộn sẽ đến, mà cái chết để thực hiện ý chí của Thượng Đế là ân phúc, như chính tiên sinh viết trong sách của mình. Nhưng nếu chấp nhận sự thoái nhượng ấy, tôi liều lĩnh đi ngược lại luật của Kitô, mà cái đó thì tồi tệ hơn sự chết.”
Có nghĩa là nếu coi nguyên tắc phi bạo lực là luật hay lệnh của Thượng Đế thì ta sẽ thà chết còn hơn vi phạm luật ấy. Trả lời những người phản biện khác, cũng đưa thí dụ cổ điển ấy ra: một người lương thiện trông thấy một ác thủ đang hãm hiếp hoặc định giết một em bé gái phải làm gì, Tolstoi trả lời: giơ ngực mình ra cho hắn đâm hoặc bắn và bảo em bé: “chạy đi!”. Trong đời sống cá nhân là thế nào thì trong đời sống xã hội, quốc gia, quốc tế cũng phải là như thế. Chính theo tinh thần ấy, áp dụng nguyên tắc phi bạo lực vào lĩnh vực đấu tranh giải phóng dân tộc, môn đệ của Tolstoi Mahatma Gandhi sẽ nói với những đồng bào của mình: “Từ nay cho đến ngày chúng ta dành lại được độc lập, những sông máu có thể chảy ra, nhưng đó phải là máu của chúng ta, không phải của kẻ thù”. Gandhi không mệnh lệnh hoặc hô hào ai đổ máu mình vì tổ quốc, nhưng ông khuyến dụ không lấy máu trả máu để cho thắng lợi trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc được thanh sạch, được phù hợp với đạo Trời. Đạo Trời cao quý hơn mọi ích lợi trần gian – đó là điều mà Gandhi và Tolstoi thấm nhuần và kêu gọi mọi người thấm nhuần.
Như vậy giới hạn chịu đựng cái ác, chịu đựng bạo lực mà học thuyết của Tolstoi đưa ra là hầu như không có, cho nên nó mới khó được tiếp nhận đến thế và vì thế mà những đối thủ tư tưởng của Tolstoi từng buộc tội ông là phản nhân đạo theo kiểu của mình và bằng cách của mình tiếp tay cho cái ác. Nhưng họ quên đi rằng lời khuyến dụ “hãy chịu đựng cái ác” ở Tolstoi luôn luôn đi kèm với lời khuyến dụ khác – “đừng tuân phục cái ác” và phần lớn chương trình hành động của ông nhằm triệt tiêu cái ác là ở phần thứ hai này. “Không tuân phục cái ác” đương nhiên bao hàm không hợp tác với cái ác bất kỳ trong lĩnh vực nào, dưới hình thức nào và ở mức độ nào: không tham gia các cơ cấu quyền lực, không gia nhập các đảng phái, thực chất chỉ đấu tranh cho các lợi ích cục bộ của mình và phản bội lợi ích của nhân loại, không tham chiến, không sống bằng lao động của người khác, không ủng hộ và truyền bá những gì giả dối và vô đạo đức, v.v… và v.v…
Nhưng như thế chưa đủ: “Không tuân phục cái ác” còn là không nộp thuế cho nhà nước, khi đã hiểu rằng những thuế má ấy là bất công và được sử dụng cho những mục đích bất chính, không đi lính và không phục vụ trong quân đội và cảnh sát vì chúng là những công cụ thực hiện bạo lực và chiến tranh, không thề nguyện trung thành với bất kỳ một tổ chức nào để khỏi bị ràng buộc bởi lời thề, khỏi đánh mất tự do tinh thần của mình, không nghe theo bất kỳ một tiếng nói bên ngoài nào, khi thấy tiếng nói ấy trái ngược với tiếng nói của lương tri ta, v.v… Đấy, sự “không tuân phục cái ác” theo Tolstoi, nói còn rất nhiều chưa đầy đủ, là như thế và không thể không thừa nhận rằng nếu nó được thực hiện triệt để, thì cái ác sẽ không có chỗ tồn tại trên hành tinh này. Nhưng thực hiện nó rõ ràng còn khó hơn thực hiện “không chống cự cái ác”, vì thế mà học thuyết của Tolstoi mới bị coi là không tưởng.
Tolstoi quá hiểu rằng học thuyết của ông, mà ông không bao giờ gọi là của mình, mà coi là một bộ phận nhỏ của học thuyết Kitô giáo chân chính, không thể nhanh chóng được đưa vào đời sống. Trong lời tựa cho tiểu sử của Garrison được đưa vào sách này, ông viết: “Nguyên tắc không chống cự không phải là nguyên tắc của bạo lực, mà là nguyên tắc của sự hòa hợp và tình thương yêu, và vì thế nó không thể biến thành bắt buộc đối với loài người bằng những biện pháp cưỡng chế. Nguyên tắc không chống lại cái ác bằng bạo lực, mà tựu trung là sự thay thế bạo lực bằng thuyết phục, chỉ có thể được tiếp nhận một cách tự do và tự do áp dụng vào đời sống (chúng tôi nhấn – PVC), tức là ở chừng mực mà loài người chối bỏ bạo lực và thiết lập những quan hệ của mình trên sự thuyết phục hợp lý hợp lẽ…” Biết trước rằng quá trình ấy sẽ rất tiệm tiến và khúc khuỷu, Tolstoi tuy vậy vẫn một mực khẳng định: “Dù muốn hay không, loài người chỉ có thể giải phóng mình khỏi cảnh nô dịch và áp bức lẫn nhau nếu tuân thủ nguyên tắc này”. Sẽ không là thừa nhớ đến thời điểm của tuyên bố này – đầu thế kỷ XX, khi chưa hề có Hội quốc liên, Liên hợp quốc cùng các tổ chức quốc tế khác bảo vệ quyền con người hay chăm lo giải quyết các xung đột liên quốc gia, tôn giáo và sắc tộc.
Trong ngôn ngữ của loài người khó tìm được những từ ngữ mà Tolstoi lại kiêng kị như “anh hùng”, “cái anh hùng”, “chủ nghĩa anh hùng”. Như đã nói, trong “Chiến tranh và hòa bình” ông không tôn vinh công đức của một ai trong số những nhân vật tham gia bảo vệ đất nước, mà chỉ viết về họ như những người đã cố gắng làm tròn bổn phận của mình. Nhưng về già ông lại dành nhiều dòng và trang viết để tuyên dương những tấm gương anh dũng của những người đàn ông vì xác tín tôn giáo mà chối từ quân dịch, chịu đựng mọi hình phạt như giam cầm, đánh đập, lao động khổ sai, phát vãng. Và ông ca ngợi những phụ nữ – những người vợ, người mẹ một mình ủng hộ, nâng đỡ tinh thần những kẻ “phạm tội” như thế, và nhìn thấy ở những quan hệ liên ngã thể như thế một kiểu mẫu cho liên minh gia đình trong loài người (không phải trong quốc gia và lại càng không trong giai cấp!)
Ông biểu dương những giáo phái thiểu số dám ly khai với giáo hội chính thống vì không thể chấp nhận những việc làm phản Chúa, phản nhân của nó và tự nguyện hứng chịu những truy bức của nhà nước vào hùa với giáo hội ấy. Ông khen ngợi những người nông dân, bị địa chủ phú hào cướp đất mà lại không khởi loạn đốt phá tài sản của chúng, nhưng chịu đi tìm những nơi nào có thể sống bằng lao động của mình mà không phải chịu áp bức, bóc lột, cho dù việc ấy ban đầu có khó khăn đến đâu. Và bản thân Tolstoi như là một người không tuân phục cái ác không ngớt cất tiếng lên án cái ác bất cứ nó diễn ra ở đâu: ông phê phán toàn bộ chính sách đối nội và đối ngoại của chính phủ nước ông; ông phản đối chính sách thuộc địa của Anh ở Ấn Độ và Nam Phi, phản đối chiến tranh Philipin của Mỹ, lên án những tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương, v.v…
Cần phải nói thêm về lập trường của Tolstoi đối với các dân tộc bị thực dân đô hộ và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của họ. Ông cảm thông sâu sắc với tình cảnh của họ, nhưng không đồng tình với chủ nghĩa yêu nước quá khích và óc dân tộc chủ nghĩa hay thể hiện ở họ. Tolstoi nói với họ: giành lại độc lập dân tộc chỉ là mục tiêu trước mắt nhất thời và không nên gán cho nó một ý nghĩa quá quan trọng; cái quan trọng hơn nhiều là làm thế nào thoát khỏi cảnh ngộ ngàn năm người thống trị người, người áp bức người, bởi vì từ việc là những kẻ thống trị và áp bức sẽ là những kẻ đồng tộc, chứ không ngoại tộc, sự thống trị áp bức ấy không trở nên ít xấu xa, ít tệ hại hơn. Ông còn nói tiếp: sở dĩ các đế quốc phương Tây đô hộ được các nước phương Đông là vì nhân dân của các nước ấy trước khi đế quốc thực dân đến đã quen tuân phục cái ác, khuất tùng và tham gia bạo lực vì những lợi ích trần tục, chứ không sống theo đạo Trời, theo những điều răn của các thánh nhân hiền giả của chính họ. Tolstoi viết trong “Thư gửi một người Ấn Độ” (1908) cũng được đưa vào sách này:
“Nếu người Anh đã nô dịch được người Ấn, thì chỉ vì người Ấn đã và đang thừa nhận bạo lực như là nguyên tắc tổ chức xã hội chủ yếu và cơ bản. Vì nguyên tắc ấy mà họ từng phục tùng những tiểu vương của mình, vì nó mà họ từng đấu tranh với nhau, từng đấu tranh với người Âu, người Anh và giờ đây vẫn cố gắng đấu tranh với chúng.
Một công ty thương mại đã nô dịch một dân tộc 200 triệu người. Hãy nói điều này cho một người không mê tín dị đoan, và anh ta sẽ không hiểu những lời nói ấy có ý nghĩa gì. Thế nào là 30 nghìn người không phải lực sĩ, mà nhiều phần hơn là những kẻ yếu ớt, kém cỏi đã nô dịch được 200 triệu con người hoạt bát, thông minh, tráng kiện, yêu tự do? Lẽ nào chỉ từ những con số ấy lại không rõ là không phải người Anh, mà chính người Ấn đã nô dịch chính mình? Là người Ấn Độ mà lại than phiền rằng những người Anh đã nô dịch mình thì chẳng khác nào những kẻ nát rượu than phiền rằng những người bán rượu sống chung với họ đã nô dịch họ. Bạn bảo họ có thể không uống, nhưng họ trả lời bạn rằng họ không uống không được […] Chẳng phải cũng điều này đang xảy ra với mọi người, với hàng triệu người đang phục tùng chỉ hàng nghìn hay hàng trăm người đồng tộc hoặc ngoại tộc?”
Ở một chỗ khác Tolstoi nói rằng nếu mà người Ấn biết sống với nhau theo đạo Trời chứ không theo luật đời thì không phải 30 nghìn người Anh, mà cả nước Anh cũng không làm gì được họ, cho dù họ chỉ có không phải 200 triệu mà chỉ 5000 người.
Cũng những thư ngỏ với nội dung tương tự Tolstoi đã viết cho người Trung Quốc, người Ba Lan, người Serbie. Và đã chẳng dân tộc nào nghe theo những khuyến dụ của ông. Ngay ở Ấn Độ nhân dân nước này vừa mới giành được độc lập quốc gia thì đã lao vào một cuộc chém giết lẫn nhau khủng khiếp do những kỳ thị tôn giáo (điều mà Tolstoi sinh thời không ngớt lên án và không ngớt cảnh báo và chính vì lý do này mà ông cứ muốn thiết lập mau mau một tôn giáo toàn thế giới) và đã giết chết cả thánh Gandhi của mình. Nhưng từ đó có nên kết luận rằng những khuyến dụ của Tolstoi là viển vông, vô bổ, ở ngoài chân lý.
*
* *
Cho đến giờ, chúng tôi vẫn chủ yếu nói về những luận điểm, những tư tưởng mang tính phủ định của Tolstoi. Bây giờ xin được đề cập, cũng chỉ qua loa, tới mặt chính diện, khẳng định trong học thuyết của ông. Do khuynh hướng đạo đức luận rõ rệt của tư duy Tolstoi, mọi khẳng định chính diện nơi ông đều tập trung xung quanh vấn đề con người nên sống thế nào. Nhưng ngay từ đầu cần phải tâm niệm rằng khi Tolstoi nói “nên” tức là ông cũng nói “có thể”. Ông hoàn toàn tin những gì ông khuyến dụ đều làm được, thậm chí dễ làm – ông biết có những người đã và đang làm như thế. Thứ hai, Tolstoi tin tưởng sắt đá rằng những lời khuyên của ông hữu ích trong mọi hoàn cảnh của cá nhân con người và trong mọi cục diện của xã hội loài người, bất cứ chúng là thế nào. Đến đây, cần nói đến một quan điểm kiên định nữa của Tolstoi.
Ông sống và hoạt động trong thời đại khi mà do những bước tiến vượt bậc của khoa học, con người càng ngày càng tin tưởng vào khả năng của mình đoán biết chính xác tương lai của loài người, và từ những tiên đoán được gọi là khoa học người ta xây dựng nhiều học thuyết xã hội rất “dài hơi”, cho tiền đồ hàng thế kỷ nhân loại, và từ cái tiền đồ tưởng là nắm trong tay ấy mà người ta thiết lập những cương lĩnh hoạt động cho từng thời kỳ lịch sử ngắn hơn, quy định những nhiệm vụ phải được giải quyết và những mục tiêu phải đạt được trong từng thời kỳ (thí dụ điển hình là chủ nghĩa Mác). Tolstoi về mặt này là kẻ ngoan cố theo thuyết bất khả tri. Ông cho rằng nếu con người không thể biết được nó tồn tại trong thế giới này để làm gì (nói bằng ngôn ngữ thần học: Thượng Đế phái cử nó vào cõi đời này để làm gì), nó từ đâu đến và sẽ đi đến đâu, thì nó cũng không thể biết được tương lai của loài người sẽ ra sao. Hơn thế nữa, Tolstoi còn quả quyết: con người không nên cố gắng biết về cái không thể biết, việc ấy chỉ có hại cho nó. Trong tác phẩm “Về ý nghĩa của cách mạng Nga” (1906) ông viết:
“Con người không chỉ không thể biết, đời sống xã hội trong tương lai sẽ thâu thái những hình thức thế nào, song còn thường là không tốt cho con người, khi nó tưởng rằng nó có thể biết về cái đó. Không tốt bởi vì không gì cản trở dòng chảy đúng đắn của đời sống con người như cái tri thức hư ngụy về việc cuộc sống tương lai của loài người phải là thế nào. Cuộc sống của từng con người riêng lẻ lẫn các xã hội chỉ là ở chỗ những con người và những xã hội đi đến cái chưa được biết, không ngừng biến đổi không do những hoạch định duy lý của dăm ba người về việc những biến đổi ấy phải là thế nào, mà do ý nguyện hướng tới sự hoàn hảo đạo đức – tinh thần nằm sâu trong tất cả mọi người, được thể hiện bằng hoạt động đa dạng vô tận của hàng triệu và hàng triệu cuộc sống con người. Vì thế những điều kiện mà con người sẽ tạo ra trong quan hệ với nhau và những hình thức mà xã hội của những con người sẽ thâu thái chỉ phụ thuộc vào những thuộc tính nội tại của con người, chứ tuyệt không phải vào việc con người tiên đoán được hình thức này hay hình thức khác mà họ mong muốn đời sống của họ thu nhận được. Nhưng trong khi ấy thì những người không tin vào luật của Thượng Đế lại luôn luôn tưởng rằng họ có thể biết, trạng thái tương lai của xã hội sẽ phải là thế nào và họ không chỉ xác định cái trạng thái tương lai ấy, mà còn làm đủ mọi việc chính họ cho là xấu xa chỉ cốt sao cho xã hội loài người trở nên như họ mong muốn. […] Hậu quả tai hại nhất của sự tiên tri hư ảo về việc xã hội tương lai phải là thế nào và của cái hoạt động nhằm biến cải xã hội – đó là chính sự tiên tri hư ảo ấy và chính hoạt động biến cải ấy cản trở hơn cả sự vận động của xã hội theo con đường thích hợp với nó, vì lợi ích chân chính của nó”.
Như vậy, theo Tolstoi, con người không thể tiên kiến và hoạch định tương lai, Thượng Đế không cho nó năng lực ấy, và nếu nó vẫn cứ cố làm cái việc bất khả ấy thì nó chỉ có thể dựng xây những lâu đài trong không trung thay vì xây dựng nhà ở cho mình và đồng loại trên mặt đất, và say mê với những sứ mệnh xa viễn và hư ảo, nó sẽ quên lãng những nhiệm vụ và bổn phận trong đời thực ngắn ngủi của nó. Tương tự như thế, trong lĩnh vực thám hiểm tự nhiên, con người cũng không được ban cho năng lực phát lộ những bí mật cuối cùng của thế giới, cho nên nếu nó vẫn cứ cố làm điều ấy, thì nó sẽ chỉ tính toán chính xác được những điều như trái đất cách xa mặt trăng, mặt trời và các thiên thể khác bao nhiêu cây số, những con số chính xác ấy không làm cho nó trở nên thông minh hơn và hữu đức hơn, nhưng nếu nhét đầy đầu mình những con số như thế, nó sẽ tưởng rằng nó đủ sức chinh phục thiên nhiên và hoạt động với ảo tưởng như thế về mình, nó sẽ làm cho chính mình càng ngày càng không còn khả năng sống trên trái đất nữa. Cho nên, để nó có thể sống an phúc và dài lâu trên hành tinh này, nó phải biết tự hạn chế những đối tượng tìm hiểu và phấn đấu đạt tới, phải biết xác định cái gì là quan trọng hơn cả cho mình và tập trung sức mình vào đấy và chỉ khi đã làm tốt cái việc quan trọng nhất ấy thì mới nghĩ đến những việc khác. Cái việc quan trọng nhất ấy, theo Tolstoi, là làm sao sống cho có ý nghĩa cái cuộc sống phù du nay còn mai mất của mình, mà cuộc sống ấy thì toàn bộ nằm trong hiện tại. Và nếu mỗi người làm tốt những gì cần phải và có thể làm trong hiện tại, thì chẳng việc gì cần phải lo âu về tương lai của thế giới và nhân loại. Tolstoi ưa dẫn lời dạy của Kitô: “Đừng lo lắng cho ngày mai, bởi vì ngày nào có nỗi lo của ngày ấy”, và ông cũng đưa ra châm ngôn của mình: “Việc gì quan trọng nhất trên đời? Việc ta đang làm”.
*
* *
Sống có ý nghĩa, theo Tolstoi ( và ở đây ông không đơn độc) trước hết là sống trong tình yêu. Về tình yêu đối với Thượng Đế như là một điều kiện không thể thiếu cho tình yêu đích thực đối với con người chúng tôi đã nói đến. Chỉ cần nói thêm là theo đạo đức học Kitô giáo mà Tolstoi hoàn toàn chia sẻ ở điểm này thì với con người ta cần phải yêu thương như yêu thương bản thân mình (dĩ nhiên có thể yêu thương hơn bản thân) nhưng với Thượng Đế thì cần phải luôn luôn yêu kính hơn bản thân, yêu kính tuyệt đối. Tolstoi nói rằng cái họa của loài người không phải ở chỗ họ không biết yêu kính và xả thân cho cái mình yêu kính, mà nhiều phần hơn ở chỗ họ hay yêu kính tuyệt đối cái không đáng yêu kính tuyệt đối và không yêu kính hay yêu kính không tuyệt đối cái phải được yêu kính tuyệt đối. Người đời tìm những đối tượng ngưỡng mộ và tin theo ở thế giới bên ngoài, ở đủ các nhân vật và thế lực được thần thánh hóa, nhưng lại không biết tôn kính và nghe theo Thượng Đế sống trong mình và nói bằng tiếng nói của trí tuệ và lương tâm mình. Chỉ Thượng Đế sống trong ta ấy, mà Tolstoi hay đối lập với Thượng Đế phát ngôn qua tiếng nói của các linh mục, mới là người hướng đạo đáng tin cậy trong toàn bộ cuộc đời của ta, mới chỉ bảo cho ta cần phải xử sự như thế nào trong từng trường hợp khó xử trong cuộc đời. Tolstoi khẳng định: trong mọi tình huống có thể xảy ra, dù chúng có khó khăn đến đâu, vẫn có thể tìm được lối thoát xứng đáng, chỉ cần chúng ta nhớ rằng trong chúng ta có một Thượng Đế. Không biết trước Tolstoi có nhà truyền giáo nào nói mạnh như thế không, nhưng Tolstoi thì không ngớt nhắc lại điều này phải chăng vì ông tiên cảm được trong những thập kỷ sắp đến trên thế gian sẽ xuất hiện những cảnh huống nghiệt ngã chưa từng có trong lịch sử và rất nhiều người thiện lương và đầy trí lực sẽ sa ngã ê chề chỉ vì họ không còn nhớ đến Thượng Đế sống trong họ?
Không thể yêu thương đồng loại mà lại không yêu kính Thượng Đế và không thể yêu kính Thượng Đế mà lại không thương yêu đồng loại – chân lý này của đạo Kitô ở độ sâu nhất phù hợp với chân lý của các tôn giáo khác. Nét riêng của Tolstoi trong cách hiểu chân lý này là ở chỗ Tolstoi không bao giờ dùng định thức phổ biến trong thần học Kitô giáo – “con người là hình ảnh và thể tương đồng với Thiên Chúa”, mà nói xác định hơn và mạnh bạo hơn, xóa nhòa ranh giới giữa đấng sáng tạo với vật thụ tạo: mọi người đều là con của Thượng Đế hay, như vừa dẫn, Thượng Đế sống trong mọi người. Tức là sống trong từng người mà ta bắt gặp, tiếp xúc, có quan hệ trong cuộc sống hàng ngày – đúng theo nghĩa chữ của từ “blizhnij; the next; le prochain” được chuyển dịch sang tiếng Việt bằng từ “đồng loại” hơi trừu tượng. Yêu cái người ở sát nách ta ấy, cái người mà ta ngày ngày cùng sinh hoạt, cùng làm việc và nhiều khi không ưa, xích mích, thù ghét là việc khó hơn rất nhiều so với yêu những đồng loại ở xa, yêu nhân loại chung chung, và Tolstoi viết nhiều về cái tình yêu khó xây dễ phá ấy, coi nó là công việc quan trọng nhất của đời người. Câu châm ngôn của ông được dẫn ở trên có phần tiếp theo: “Ai là người quan trọng nhất trên đời? Người đang giao thiệp với ta”.
Với Tolstoi, cũng như với mọi người nhân đạo chân chính, tình yêu con người phải luôn luôn cần mẫn, phải không chỉ là thái độ và tình cảm mà còn là hành vi và việc làm. Ông thích nhắc lại lời dạy của Khổng Tử: “Cái gì không muốn cho mình thì đừng làm cho người”, nhưng ông giải thích rằng đây là lời dạy không đi ngược lại tình nhân loại, còn để thực hiện tình nhân loại thì phải làm theo lời của Kitô: “Hãy đối xử với người như ta muốn được người đối xử với ta”. Có điều mặc dù những chân lý ấy, mà Tolstoi hay viện dẫn và minh họa, là không thể bác bỏ, những người không ưa thích ông vẫn chê ông nặng óc duy lợi: cả hai điều răn trên đều không ra ngoài lợi ích của con người. Thế còn tình yêu và cái thiện như là những giá trị tự thân tự tại? Nhưng Tolstoi cũng biết khẳng định chúng. “Nếu việc thiện được làm vì một cái gì đó, thì nó đã không còn là việc thiện. Ta chỉ yêu thực sự khi không biết tại sao và để làm gì”. Ở mệnh đề đầu ông nói theo Kant, ở mệnh đề sau ông đã nói như một triết gia – nghệ sĩ, xuất hiện trong thể lưỡng – nhất thuần toàn rất hiếm hoi. “Người ta nói: có ích lợi gì làm điều thiện cho những người khác, khi mà họ thường lấy ác trả thiện? Nhưng nếu bạn yêu thương người được bạn làm thiện, thì bạn đã nhận được phần thưởng rồi trong tình yêu đối với người ấy và bạn sẽ còn nhận được phần thưởng lớn hơn trong lòng mình, nếu với tình thương yêu con người ấy bạn sẽ chịu đựng cái ác mà người ấy gây cho bạn”. “Người đời hay nghĩ rằng nếu họ thương yêu đồng loại thì họ đã lập công trước Thượng Đế. Song sự thể hoàn toàn ngược lại. Nếu bạn thương yêu đồng loại, thì không phải bạn đã lập công trước Thượng Đế, mà Thượng Đế đã cho bạn cái hạnh phúc lớn nhất trên đời – tình yêu”.
*
* *
Sống có ý nghĩa, theo xác tín của Tolstoi, còn là sống trong tự do. Tự do theo cả nghĩa phản diện lẫn chính diện, cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Tự do theo nghĩa phản diện được Tolstoi hiểu như là sự không bị lệ thuộc, không bị trói buộc bởi bất cứ cái gì cản trở sự thể hiện bản chất thần thánh của con người. Sự giành lấy cái tự do ấy bắt đầu từ việc con người làm chủ bản thân, chế ngự những dục vọng của thân xác, đặt thân xác dưới sự chỉ huy của tinh thần – ở đây, Tolstoi hầu như không nói cái gì của mình mà chỉ trình bày lại những cơ sở của phép khổ hạnh tôn giáo mà không đạt được sức lôi cuốn của nhiều nhà khổ tu đắc đạo truyền đạt kinh nghiệm của mình. Những người ấy trong thái độ với thân xác biểu lộ một sự hiểu biết, đồng cảm, thương mến bất cập đối với nhà tư tưởng Tolstoi. Nét riêng của Tolstoi bộc lộ ở chỗ khác. Khi đặt vấn đề về việc không ai có quyền sống bằng lao động của người khác và ai ai cũng phải bằng lao động chân tay kiếm sống cho mình và gia đình mình thì Tolstoi không chỉ khẳng định lao động như là nghĩa vụ không thể thoái thác của mọi người mà còn nói với ta rằng chỉ cái lao động “cơm áo” ấy, lao động làm ra những nhu yếu phẩm không thể thiếu cho con người mới mang lại cho nó cái độc lập vật chất triệt để, sự không phụ thuộc vào bất cứ một ai, không bị ai lợi dụng sự phụ thuộc ấy mà cưỡng bức, tha hóa, nô dịch.
Lao động nông nghiệp, đời sống nhà nông được Tolstoi yêu chuộng đến thế không chỉ vì chúng gần gũi với thiên nhiên, lành mạnh và đem lại nhiều niềm vui cho con người mà còn bởi vì theo ông những con người tự làm ra cái ăn cái mặc cho mình là những người độc lập nhất, tự do nhất, có nhiều điều kiện nhất để thể hiện và bảo vệ nhân phẩm của mình, những xác tín, sở thích và nguyện vọng chính đáng của mình, có nhiều khả năng nhất chống đối mọi hình thức áp lực từ bên ngoài, bất cứ chúng xuất phát từ đâu. Và cái lao động bảo đảm những nhu yếu phẩm cho mình ấy cũng là căn cứ vững chắc cho tự do sáng tạo ở những người có năng lực sáng tạo tinh thần – cái tự do sáng tạo ấy, cũng như tự do xác tín, tự do ngôn luận, tự do làm những việc mình yêu thích đã là cái tự do chính diện – một trong những mục đích và giá trị cao nhất của nhân sinh. Xuất phát từ quan niệm như thế mà Tolstoi kêu gọi những người đã rời bỏ đất ở các xã hội công nghiệp trở về với đất, còn các dân tộc đang làm nghề nông thì đừng rời bỏ, đừng đi theo vết xe đổ của các nước phương Tây, nơi những người công nhân nhà máy là những người mất tự do nhất, bị nô dịch nhất, còn những tầng lớp khác, không lao động thì lại càng không có tự do vì bị nhà nước và tư bản mua.
Phương sách mà Tolstoi đề xướng để đạt tới và bảo vệ cái tự do thực chất, không phải hình thức, là như thế. Nó có hiện thực không? Sẽ là bất công nói nó hoàn toàn không hiện thực (vì sao xin được nói đến sau). Thế nhưng tại sao cái cơ sở vật chất cho tự do ấy – các công xã nông nghiệp ở Nga, ở Trung Quốc, ở Ấn Độ – những nơi Tolstoi gửi gắm hy vọng – lại tan rã đồng loạt và nhanh chóng như thế trước sức tấn công của kinh tế thị trường, kinh tế tư bản chủ nghĩa? Và có đúng là cái cơ sở vật chất ấy một mình nó có thể bảo đảm cho tự do thực chất của con người? Chính Tolstoi trong những thư ngỏ gửi nhân dân Trung Quốc, nhân dân Ấn Độ không nể nang trách cứ, phê phán họ đã bán rẻ tự do của mình đổi lấy những lợi ích cỏn con được ban phát từ tay những kẻ áp bức bóc lột nội tộc và ngoại tộc. Có nghĩa là có thể có cơ sở vật chất cho tự do, nhưng vẫn không có tự do, hay tự do vẫn tiêu vong, nếu con người không quý giá tự do và ưa thích những giá trị khác hơn. Thành thử vẫn chỉ có một tự do không phải thiết lập và không thể mất đi – tự do trong Thượng Đế, từ sự thấm nhuần và sự trung thành trước sau như một với những chân lý của Thượng Đế – điều mà Tolstoi cũng luôn luôn khẳng định.
Về thái độ phủ định của Tolstoi đối với những hình thức tự do tương đối đã đạt được trong đời sống các dân tộc phương Tây cũng xin được nói đôi lời. Đây không phải là định kiến ngoan cố của nhà văn Nga, từ một nền văn minh kém phát triển nhìn vào nền văn minh phát triển hơn nhiều, như một số người ở phương Tây nói. Một nhận định như thế có thể là đúng đối với phái “thân Slavơ”, nhưng không đúng với Tolstoi. Thái độ phủ định của ông trong trường hợp này lại là một biểu hiện của lối tư duy gọi là cực đoan cũng được, gọi là triệt để thì sát hơn của nhà tư tưởng – nghệ sĩ vĩ đại. Tolstoi không muốn các dân tộc phương Tây thỏa mãn với cái tự do rất tương đối, tự do hình thức đã đạt được và ngại rằng, để mai một đi đức tin tôn giáo, chối bỏ Thượng Đế, đặt những lợi ích vật chất lên trên những lợi ích tinh thần, họ sẽ không bao giờ thực hiện được tự do chính thực. Thứ hai, ông nhìn thấy rõ tính không chắc chắn, không vững chãi của cái tự do tương đối ấy, và từng cảnh báo rằng trong những tình huống khủng hoảng xã hội nó rất dễ chuyển hóa thành chế độ độc tài, và lịch sử thế kỷ vừa qua đã xác nhận lời cảnh báo ấy. Ngay cả ở những nước phát triển đã tránh được những cuộc chuyển hóa như thế, tự do của người dân cũng đang bị ngày một hạn chế, thắt chặt, đặt dưới sự kiểm soát gắt gao của nhà nước và các cơ cấu quyền lực liên quốc gia.
*
* *
Cuộc sống có ý nghĩa, theo Tolstoi, đương nhiên còn là cuộc sống trong nhân phẩm – cái mà Tolstoi luôn luôn đặt cao hơn hạnh phúc, từ này nhà tư tưởng Tolstoi ít khi dùng do hàm nghĩa quá chủ quan của nó và thường thay thế bằng từ “blago”, có thể tạm dịch ra Việt ngữ bằng những từ ghép như “cái phúc hảo”, “cái thiện phúc”, “cái thiện hảo”. Về tần số sử dụng, từ “blago” giữ vị trí hàng đầu trong từ vựng Tolstoi.
Phạm trù nhân phẩm có nội hàm rất rộng, chúng ta chỉ dừng lại đôi chút ở một thành tố của nội hàm ấy liên quan mật thiết với Tolstoi – sự trung thực, chân thật. Tolstoi như một con người, như một nhà văn và nhà tư tưởng là hiện thân của sự trung thực, chân thật, và ở đây ông đã là một thể tam – nhất thuần toàn cực kỳ hiếm hoi. Tất cả những người quen biết Tolstoi đều ghi nhận tính trung thực, chân thật như một đặc tính nổi bật của nhân cách ông. Tolstoi nhạy cảm phi thường đối với mọi biểu hiện dù nhỏ nhất của sự không thật lòng, sự gượng gạo, giả tạo, giả dối và cương quyết không chấp nhận chúng. Nguồn gốc sức cuốn hút khó cưỡng lại của văn phong Tolstoi cũng là ở đây. Những người không ưa Tolstoi – mà họ không ít ngay trong hàng các danh nhân văn hóa châu Âu, xin dẫn chỉ một vài tên: Shaw, Gide, Claudel, ngay cả Zweig – vin vào mâu thuẫn thấy được giữa những tuyên tín của ông về việc người theo đạo Kitô phải biết chịu đựng gian khổ và cuộc sống dư dật mà ông miễn cưỡng chia sẻ với gia đình mình, đã nghi ngờ ông giả nhân giả nghĩa, nhưng chỉ cần đọc, thí dụ, bài viết “Gửi nhân dân lao động” của ông để thấy không yêu thực sự nhân dân lao động thì không thể viết như thế.
Trong mọi dạng thức bất trung, đối với Tolstoi xem ra không thể chấp nhận hơn cả là sự bất trung với bản thân. Từ “trung thành” (vernyi) với từ “tin, tin tưởng” (verit’) trong tiếng Nga có căn chung, cho nên khi Tolstoi kêu gọi tuổi trẻ “hãy tin mình” (xem bài mang tên này) thì thực chất ông kêu gọi tuổi trẻ hãy trung thành với mình, với cái phần tốt đẹp nhất trong sinh linh mình, đừng phản bội nó, đừng để cho tro bụi cuộc đời vùi lấp nó. Mọi lợi ích trần thế mà chúng ta có thể giành được không là gì so với những giá trị bị phản bội và vùi lấp ấy nhưng ta thường nhận ra điều ấy quá muộn, khi đã không còn thời gian nữa để làm lại cuộc đời, thành thử những người vào đời trước cần phải nhắc nhở những người đi sau ngõ hầu giúp họ đừng mắc nữa cái sai lầm muôn thuở ấy của loài người. Và Tolstoi tin rằng nếu chịu khó và biết cách nhắc nhở thì có thể giúp được các thế hệ đi sau, vì vậy mà ông mới say mê với hoạt động nhà giáo đến thế. Ông dạy nhiều điều cụ thể và thiết thực về việc làm thế nào giữ được tính trung thực đạo đức và trí tuệ, mà không có nó thì không thể có phẩm giá con người. Đây, một vài lời dạy như thế, lấy từ sách “Đường sống” đến tay bạn đọc sau khi Tolstoi đã qua đời.
“Đừng nghĩ rằng nói và làm theo lẽ phải là cần thiết chỉ trong những việc quan trọng. Nói và làm theo lẽ phải là luôn luôn quan trọng, ngay cả trong những việc vặt vãnh nhất. Cái quan trọng không phải là tai hại lớn hay nhỏ sẽ phát sinh từ sự không trung thực của bạn, mà quan trọng là sao cho bạn không vấy bẩn mình bằng sự giối trá”. “Nếu đời sống không phù hợp với công lý, thì dù sao vẫn sẽ là tốt hơn thừa nhận công lý chứ không che giấu nó: cuộc sống của ta, ta có thể thay đổi theo công lý; nhưng công lý thì ta không thể thay đổi được bằng bất cứ cái gì, nó sẽ còn lại như nó từng là và sẽ không ngừng tố cáo chúng ta”. “Nếu người ta nói với bạn rằng không cần trong mọi việc lần tìm đến tận chân lý, bởi vì sẽ không bao giờ tìm được chân lý đầy đủ, thì bạn đừng tin và hãy sợ những người như thế. Đó là những kẻ thù ác dữ nhất không chỉ của chân lý, mà còn của bạn. Họ nói thế chỉ vì bản thân họ sống không theo chân lý và họ biết điều đó và muốn cho những người khác sống cũng như họ”. “Nhiều khi ta thấy mừng vui, mỗi khi nhận ra sự không trung thực của những người khác và vạch trần nó, nhưng còn vui sướng hơn biết bao, khi ta nhận ra sự không trung thực của chính mình và tự vạch trần mình. Bạn hãy cố mang lại cho mình thật nhiều niềm vui sướng như thế”. “Nếu bạn muốn nhận thức chân lý, thì trước tiên hãy giải phóng mình, dù chỉ trong thời gian tìm chân lý, khỏi mọi suy tính về sự có lợi cho mình của đáp án này hay đáp án kia”. “Trí tuệ là vật thiêng lớn nhất trên đời, vì thế mà cũng là tội lỗi lớn nhất lạm dụng trí tuệ, dùng nó để che giấu hoặc xuyên tạc sự thật”. “Trí tuệ được ban cho con người không phải để dạy nó biết yêu Thượng Đế và đồng loại. Cái đó được gài trước vào trái tim con người, bên ngoài trí tuệ. Trí tuệ được ban cho con người để chỉ cho nó thấy cái gì là giả dối và cái gì chính thực. Và chỉ cần con người vứt bỏ đi cái giả dối thì nó sẽ học được tất cả những gì cần thiết cho nó”.
Ở một chỗ khác Tolstoi nói rằng không có nghĩa vụ nào quan trọng bằng nghĩa vụ nói thật, nhưng trong cuộc sống có thể có những tình huống khi mà nói thật là rất nguy hiểm. Những lúc ấy cái mà con người phải làm là ít nhất không nói dối, không vào hùa với những kẻ nói dối cho dù chúng có đông đến đâu. Alexandre Solzhenitzyn, văn hào Nga thế kỷ XX, đã thấm nhuần lời dặn bảo này và đã truyền thụ lại cho đồng bào mình. “Sống không theo dối trá” là tên một trong những áng văn nghị luận hay nhất và đã có tác dụng xã hội lớn nhất của ông.
*
* *
Cuộc sống mang ý nghĩa trong mình có một dấu hiệu bề ngoài mà Tolstoi luôn luôn căn dặn ta dựa vào đó mà nhận ra nó. Đó là sự khiêm tốn và giản dị. Tolstoi cũng nói nhiều điều cụ thể và thiết thực về đức tính khiêm tốn, trong ngôn ngữ tôn giáo gọi là đức khiêm nhường (smirenie; humility; humilité). Lại xin dẫn mấy lời khuyên từ sách “Đường sống”:
“Con người không thể tự hào về những việc làm của mình, bởi vì tất cả những gì tốt đẹp mà nó làm đều không phải nó, mà bản nguyên thần thánh sống trong nó làm”. “Nếu con người hướng tới Thượng Đế, thì nó sẽ không bao giờ có thể bằng lòng với mình. Cho dù nó có tiến bộ đến đâu, nó bao giờ cũng cảm thấy mình xa cách như nhau với sự hoàn thiện, bởi vì sự hoàn thiện là vô tận”. “Chúng ta là những công cụ của Thượng Đế. Chúng ta phải làm gì – chúng ta biết, nhưng chúng ta làm cái đó để làm gì – chúng ta không biết được. Ai hiểu điều đó, người ấy không thể không khiêm nhường”. “Chỉ cần thừa nhận mình không phải là ông chủ, mà là kẻ đầy tớ, thế thì lập tức mọi sự tìm kiếm, lo âu, bất mãn được thay thế bằng sự minh bạch, yêu tĩnh, đồng thuận và niềm vui”. “Những kẻ tự tin thái quá, không thông minh và vô đạo đức thường khiến những người khiêm tốn, thông minh và hữu đức nể trọng chính bởi vì con người khiêm tốn, suy xét theo mình, không thể hình dung được là kẻ xấu có thể kính trọng mình đến thế”. “Hãy kiêng tránh ý nghĩ rằng bạn tốt hơn những người khác và rằng ở bạn có những đức hạnh không có ở người khác. Cho dù những đức hạnh của bạn có là thế nào, chúng không có giá trị gì hết, nếu bạn nghĩ rằng bạn tốt hơn những người khác”. “Hãy cố gắng đừng cất vào góc tối những hồi ức đáng xấu hổ về những tội lỗi của mình mà luôn luôn giữ chúng ở chỗ sáng để khi phán xét tội lỗi của người bên cạnh thì đối chiếu với tội lỗi của mình”. “Mọi người đều muốn những người khác yêu quý mình, biết rằng sự kiêu ngạo đẩy người khác ra xa, thế nhưng vẫn không khiêm nhường được. Tại sao lại thế? Bởi vì đức khiêm nhường không thể được hấp thụ một mình. Đức khiêm nhường là hậu quả của việc con người chuyển dịch những nguyện vọng của nó từ lĩnh vực vật chất vào lĩnh vực tinh thần”. “Cửa vào thánh đường của chân lý và phúc lạc thấp lè tè. Chỉ ai khom lưng người ấy mới vào được. Nhưng ai qua được cửa, người ấy sẽ được tốt. Trong thánh đường rộng rãi và tự do thoải mái vô cùng, và mọi người ở đấy yêu thương nhau, giúp đỡ nhau và không biết khổ đau”.
Chỉ còn lại vài câu cần nói về đức tính giản dị. Như đã nói, theo Tolstoi chân lý bao giờ cũng giản dị. Cho nên những người thấm nhuần chân lý phải sống giản dị cả về vật chất lẫn tinh thần. Thế nào là sự giản dị vật chất, ai ai cũng biết. Nhưng giản dị tinh thần trước hết là biết sống tự thân tự tại, làm những việc thấy cần làm và có thể làm tốt mà không tính đến hiệu quả và ích lợi xã hội của chúng, không cần biết những người xung quanh nghĩ gì và nói gì về ta, tuyệt không cần đến tiếng tăm, thanh danh. Tolstoi thường nhắc nhở: tư tưởng và thói quen sùng bái thắng lợi, óc hiếu danh vừa tai hại nhất, vừa khó khắc phục nhất, nhưng nếu không biết khắc phục chúng thì con người sẽ không đến được với những giá trị thật mà chỉ luẩn quẩn trong vòng vây của những ngụy giá trị và sẽ không bao giờ được toại nguyện. Nhưng ai đã đến được với những chân giá trị, mà số lượng của chúng không nhiều, thì người ấy sẽ không cần nữa cơ man những thứ giông giống giá trị, tựa như một người được dinh dưỡng đầy đủ bằng những dưỡng chất hảo hạng không cần đến những gia vị.
Nếu là thế thì phải chăng nền văn minh hiện đại của chúng ta tựa như một bàn tiệc có quá nhiều gia vị nhưng lại thiếu khủng khiếp những dưỡng chất? Phải chăng tiên lượng được điều đó mà Tolstoi cứ một mực kêu gọi những người quá giàu có cả về vật chất lẫn tinh thần hãy sống giản dị hơn, hãy khiêm hạ noi gương những người nông dân chất phác chỉ biết kính Chúa thương người, làm ăn lương thiện, không cần đến nhà nước và các tổ chức xã hội quốc nội và quốc tế nào cả, không băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống của mình và vì vậy không tìm đến những thầy dùi ngu ngốc và xảo quyệt. Có thể hỏi: một cuộc sống như thế có sát đất quá không và có nghèo nàn quá không? Sát đất thì chắc chắn không, bởi vì những người ấy sống với Thượng Đế, còn nghèo nàn thì Tolstoi cũng cam đoan là không, không những không nghèo nàn, mà còn phong phú hơn nhiều cuộc sống của các giới thượng lưu xã hội, bởi vì những người ấy yêu thương nhau, mà những tình cảm và tư tưởng nảy sinh từ tình yêu thương, những việc làm mà nó thôi thúc là phong phú vô tận. Nhưng ta hãy cứ không đồng ý với Tolstoi đi, cứ cho một cuộc sống như thế là quá đơn sơ, nghèo nàn và không thể chấp nhận. Nhưng thử tưởng tượng nếu mọi người chúng ta chịu sống một cuộc sống đơn sơ, nghèo nàn như Tolstoi khuyến dụ, thì trên hành tinh này đã không có những chiến tranh thế giới và chiến tranh khu vực, không có những chính thể phát xít và toàn trị, không có chủ nghĩa khủng bố nhà nước bây giờ được thay thế bằng chủ nghĩa khủng bố quốc tế, không có Auschwitz và quần đảo GULAG, không có Hirosima và Nagasaki, không có nạn diệt chủng ở châu Phi và chế độ tự diệt chủng ở Campuchia thời Pol Pot, không có sự đói khổ của hàng tỉ người và khủng hoảng sinh thái toàn cầu hiện nay, v.v… và v.v…
*
* *
Còn những cá nhân thì ít nhất chúng tôi biết một người – Albert Schweitzer (1875-1965) – suốt đời hâm mộ Tolstoi và đã làm được những việc mà Tolstoi không làm được. Sau khi đã nổi danh như một nghệ sĩ đại phong cầm kỳ tài, một nhà thần học và triết gia, Schweitzer đã học nghề y rồi cùng vợ trẻ rời châu Âu xuống châu Phi xích đạo, lập ở nơi rừng thiêng nước độc thuộc cộng hòa Gabon hiện nay một bệnh viện chữa trị bệnh phong cho cư dân da đen vùng ấy và đã trọn đời sống trên quê hương mới ấy, chỉ thỉnh thoảng trở về châu Âu công diễn nghệ thuật chơi đại phong cầm lấy tiền tu sửa, mở mang bệnh viện của mình. Nếu một cuộc sống như thế và những việc làm như thế là vừa sức với Schweitzer, thì cũng không bất khả thể với các trí thức và nghệ sĩ khác, chỉ cần họ có nguyện vọng và ý chí.
*
* *
Giới thiệu những tư tưởng, quan điểm của Tolstoi về văn học, nghệ thuật không phải là nhiệm vụ của sách này. Nhưng sẽ không thừa nói đôi lời về những sáng tác văn chương cuối đời của Tolstoi. Theo đuổi những tôn chỉ của nền “nghệ thuật Kitô giáo” liên kết nhân loại trong Thượng Đế, Tolstoi về già viết nhiều truyện ngắn và rất ngắn dành cho công chúng bình dân. Chúng được viết rất giản dị, cốt sao cho ngay những người ít chữ nhất cũng hiểu được. Cái “văn xuôi nhỏ” này cho đến nay vẫn bị “văn xuôi lớn” của Tolstoi che khuất, chưa mấy người để ý đến nó, công luận thì theo thói quen coi nó là thứ văn chương minh họa, “tải đạo” đơn thuần. Nhưng Mikhail Bakhtin, từng bất công với Tolstoi, vào giờ chiều tàn của đời mình thiên nhìn thấy ở những truyện rất ngắn ấy của Tolstoi và ở diễn ngôn triết học của Heidegger những tuyệt đỉnh của sáng tạo ngôn lời còn cần được nhận ra. Nếu là thế, và nếu cũng quả là, như triết gia Nga đương đại A.A. Guseinov khẳng định, loài người còn phải lớn lên hơn nữa để tiếp nhận những tư tưởng của Tolstoi, thì cần phải chờ đợi (nếu còn thời gian để chờ đợi) cuộc hội ngộ mới của nhân loại với Tolstoi, một Tolstoi bất tử trong thể thống nhất của mình.
Hà Nội, tháng Mười 2010
Giáo sư Phạm Vĩnh Cư
Nguồn: Việt Nam Net.