Nguyễn Trường
Nhà văn Nguyễn Trường, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, quê Hà Toại, Hà Trung Thanh Hóa, đã đi bộ đội 1974, học khóa V Trường viết văn Nguyễn Du, hiện công tác NXB Thanh Niên. Đã xuất bản 4 tập tiểu thuyết: Mộng đế vương(1992), Hơn cả tình yêu (1990, 2003, 2005),Tâm linh (2003), Đi qua thời áo trắng (2004); Tập truyện ngắn Thiên nhãn (1996,2003); Văn hóa-Văn học-một hướng nhìn (1999). Đã được trao một số giải thưởng văn học và báo chí.
ĐÊM CHIẾN TRANH
Nguyễn Trường
Trời vẫn tối đen. Bằng và người tù binh cứ phăng phăng đi về phía trước. Thỉnh thoảng một chùm pháo réo lên đầu, nổ ầm trước mặt, lửa bùng lên, rạch đêm đen kịt rồi bóng tối khép lại, đầy bí ẩn. Trời không trăng không sao. Dưới đất không một ánh đèn. Cơn mưa lúc chập tối để lại những đám mây đen nặng trĩu trên đầu che hết các vì sao. Bằng và người tù binh đều ướt lướt thướt, lạnh co ro. Gã tù binh đi dò dẫm, in một vệt đen đen phía trước.
Đêm qua đơn vị anh đánh đồn Cả Cái, tiêu diệt gọn địch. Chiếm lĩnh xong đồn, các anh mới phát hiện ra dưới đường hầm có một tên địch. Chính hắn là tên chỉ huy.
Từ đồn Cả Cái đến trung đoàn bộ phải vượt qua một vùng đồng trống hơn chục cây số. Đi nhanh khoảng hai tiếng đồng hồ, chỉ khoảng chập tối đã đến trung đoàn bộ.
Nhưng không ngờ, những đám mây từ hướng Nam kéo đến. Gió cuộn lên mù mịt. Biển cỏ nghiêng ngửa, xoáy tít.
Mưa quất xuống mặt họ, rát rạt. Chân họ lội bì bõm trong nước, trong cỏ cao đến đầu gối. Gã tù binh vẫn ngật ngưỡng đi theo hướng chỉ của Bằng. Mưa mỗi lúc một dày hạt. Hết cơn này lại nối theo cơn khác. Sét cứ xẹt xuống, trời như nổi giận với cánh đồng.
Trời mưa nên tối khá nhanh. Càng đi, họ càng thấy tối. Cơn mưa đã làm họ đi chậm gấp đôi.
Trời tối, trên đồng cỏ phẳng lì như biển này, ban đêm rất dễ lạc đường. Bất thần một loạt pháo từ một hướng nào đó, lao qua đầu họ và nổ bùng lên phía trước. Bằng đoán có lẽ pháo bắn từ đồn Măng Đa. Hồi còn là chiến sĩ công binh anh đã bò vào đó gỡ mìn mở lối cho đồng đội đánh đồn. Anh còn nhớ nó nằm ở hướng Đông, so với vị trí ban đầu xuất phát. Anh liền kéo gã tù binh đi chếch về hướng Bắc, đi được một lúc lại mất hướng. Bằng đành phó mặc cho may rủi. Cứ để cho người tù binh lầm lũi đi.
Bỗng một tiếng nổ rất đanh bùng lên. Phản ứng nhanh, Bằng vội nằm xuống. Anh cảm thấy tiếng gió xé bên tai. Anh thấy tay mình chạm vào vật gì tròn tròn. Linh tính báo cho anh biết sự nguy hiểm. Giữ đúng vị trí cũ, anh thò một tay xuống đất và lôi lên trái lựu đạn gài. Tay vẫn bóp mỏ vịt, tay kia anh bóp cong chốt an toàn. Đặt trái lựu đạn ra xa, anh nói gã sĩ quan:
– Có mìn, đứng lại!
Gã sĩ quan ngơ ngác quay lại phía Bằng. Trong đêm tối, anh không nhìn thấy rõ khuôn mặt, chỉ thấy gã đứng như trời trồng. Bằng nói:
– Đừng bước nữa, lọt vào bãi mìn rồi.
– Trời!… – Gã tù binh la lên. Bằng thấy người gã như khuỵ xuống.
– Ông ơi, làm sao bây giờ?
– Thì cứ bình tĩnh đã.
Bằng nói, giọng cứng cỏi nhưng chính anh cũng thấy ớn lạnh sống lưng. Họ đã đi sâu vào bãi mìn. Bây giờ họ không tài nào nhớ nổi lối ra. Cũng còn hên, chắc là con chồn nào lúc nãy chạy ẩu đã đụng và mìn nhạy nổ, báo động cho họ.
– Phải ra khỏi bãi mìn – Bằng nói.
– Ra cách nào được, ông?
– Anh bám theo tôi, đi chệch một chút là chết đấy!
Bằng để gã đi sau. Anh khoác súng lên vai, đưa tay lần tìm dây. Người lính công binh dùng độ nhạy của đôi tay để phân biệt đâu là cọng cỏ, đâu là sợi dây nối với trái gài. Anh biết loại thông thường chôn chừa một phần ba trái trên mặt đất để nó không lật mà sát thương mạnh. Tháo chốt cho gần tuột ra, nối chốt với cây cọc. Nếu địch đụng vào dây, chốt sẽ tuột ra và lựu đạn nổ.
Bằng nghĩ, nếu cứ gỡ như thế, đến bao giờ mới ra khỏi bãi mìn dày đặc này. Anh tính cách lách trong bãi mìn không cần gỡ trái, cách đi của đặc công. Tay đưa ra phía trước tìm dây. Nhưng trước khi bước, bàn tay phải sờ xuống phía trước, xoa xoa nhẹ một miếng đất xem có gì lạ không mới đặt bàn chân lên. Cứ như thế mà tiến.
Vừa đưa tay xoa xoa dưới cỏ, Bằng bỗng rùng mình vội rụt tay về: “Mìn râu rồi!”, nguy hiểm quá, loại này bay lên ngang mặt người mới nổ.
Như vậy, anh đã lọt vào bãi mìn “Thiên la địa võng”. Thật khó thoát ra. Bằng là người dày dạn trận mạc nhưng chỉ nắm được phần nào cách gài của du kích. Còn khi họ biến hoá cách gài thì thật khó lường. Bây giờ muốn đi kiểu đặc công trong bãi mìn thì chỉ một mình anh đi nổi. Còn gã tù binh kia thì sao?
Mình tự cứu mình không nổi lại còn phải cứu nó nữa. Anh quay nhìn lại phía hắn. Muốn thoát khỏi chốn này chỉ còn cách… Ở đây chỉ có ta với hắn, không một ai biết được… Sáng mai, ta báo hắn đã chạy trốn vào bãi mìn mà chết. Đơn vị chắc không kỷ luật ta. Nhưng khi tay anh từ từ kéo cò, có cái gì đó níu tay lại.
Trời tối, người tù binh không thấy Bằng đang rờ vào vòng cò chọn giây phút sống chết với hắn. Hắn chết đứng như bị trời trồng. Bằng nói nặng nhọc:
– Nhấc cao chân lên, rê dò đụng vào dây là chết đó. Đi đúng vào bước chân của tôi.
Gã sĩ quan thở hổn hển bước sát vào người Bằng. Anh lầm bầm trong miệng: “Phúc cho mày, chút xíu nữa mày về chầu Diêm vương rồi”.
Hắn run lập cập vừa bước vừa cầu Chúa. Hắn do dự. Đi sát bên Bằng cũng sợ. Đi cách Bằng một đoạn để an toàn cũng sợ. Có lúc Bằng dừng lại đưa cho hắn “sờ” thử một trái gài vừa tháo được. Chạm vào vỏ thép lành lạnh làm da hắn sởn gai ốc. Hắn tuy là sĩ quan nhưng chưa từng trải trận mạc. Ở trường sĩ quan Đà Lạt hắn cũng được học cách gỡ mìn, nhưng thực tế chạm vào cái sống và cái chết kiểu này thì chưa từng trải qua. Nhất là cách gài đầy sáng tạo của du kích. Với bãi mìn này và người lính Việt cộng kia, rõ ràng hắn chỉ là tân binh. Hắn ranh mãnh chọn cách đi sau Bằng một đoạn xa. Nếu có chết, phải là Bằng, chứ không thể là hắn được.
Nhưng hắn chưa kịp mừng được bao lâu, ánh chớp xanh lè dưới chân hắn bất ngờ bùng lên. Hắn gục xuống. Hắn không kịp nghe tiếng nổ. Còn Bằng, anh giật nảy mình vì tiếng nổ. Đất cát ném đầy đầu, cổ anh. Mùi thuốc khét lẹt.
Khẩu súng đang đeo sau lưng giật nảy lên vì mảnh chém vào, xô anh té dụi. Bằng ngồi dậy mò mẫm lại phía gã sĩ quan. Hắn nằm phục dưới đất rên hừ hừ. Hắn bị thương. Anh rút trong người ra cuộn băng, rờ rẫm tìm vết thương để băng cho hắn. May hắn chỉ bị thương vào chân.
Vừa băng xong cho hắn, Bằng thấy tay mình tê dần. Mình cũng bị thương rồi. Người bị thương mấy phút đầu không thấy đau. Máu đang trào ra. Nguy quá, vết thương đúng vào bả vai phải. Chỉ còn một tay trái hoạt động trong lúc đau buốt, khó đưa tay trái ngược phía sau mà băng nổi. Để chậm chút nữa, hết máu mình sẽ chết. Phải có người giúp đỡ. Nhưng là ai đây? Trên đồng cỏ lúc này chỉ có ta với người tù binh. Làm sao hắn làm được việc đó khi tay hắn bị trói trật ra phía sau? Mở trói cho hắn? Hắn sẽ cướp súng và thay vị trí của ta. Mình sẽ là tù binh của hắn. Nhưng cứ thử là tù binh thì sao nhỉ? Hắn có đi trước gỡ mìn mở lối không? Liệu hắn sẽ khống chế, bắt ta phải mở đường cho hắn đi? Hắn vẫn là hắn, an toàn ở phía sau. Còn người dám liều chết, mở đường vẫn là ta.
Lúc đó… lúc đó… Không, không bao giờ mở đường cho hắn. Máu ra nhiều quá… Mình phải sống. Nếu mình gục xuống là thất bại. Anh sờ vào khẩu súng, tháo băng đạn ra và kéo khoá nòng. Nhưng khoá nòng đã cứng ngắc. Thôi rồi, nãy anh đeo sau lưng, mảnh lựu đạn bay trúng bộ khoá nòng. Anh bóp cò thử, cò cũng bị liệt. Mảnh đạn văng trúng vào khẩu súng mới trượt xuống vai anh. Nếu không có khẩu súng che, chắc anh đã chết rồi.
Gã sĩ quan nghe anh dùng súng lách cách, giật mình nhổm dậy:
– Ông tha chết, đừng bắn…
– Tôi tháo súng đó. Bây giờ tôi cởi trói cho anh. Đưa tay đây…
Bằng bàn tay trái và một ít cử động yếu của bàn tay phải, anh cởi trói cho người tù binh. Hắn nghe tiếng Bằng:
– Tôi bị thương vào vai bên phải. Anh băng giùm tôi.
Hắn lúng túng vì phải chọn quyết định bất ngờ. Băng cho người lính Việt cộng này? Để cứu hắn ư? Để hắn lại bắt mình làm tù binh? Vậy thì không, để cho mày ra hết máu. Mày phải chết! Còn ta phải được tự do, sẽ về với quê hương, với cuộc sống sung sướng của ta. Súng của hắn đâu, bắt hắn làm tù binh! Nãy hắn nói tháo súng rồi phải không? Hắn khôn thật! Nhưng được rồi, ta không băng cho mày cũng đủ giết chết mày. Cần gì phải súng!
Thấy gã sĩ quan chần chừ. Bằng đưa vào tay hắn trái lựu đạn gài, giọng cứng rắn:
– Anh băng giùm tôi. Nếu không, trước khi chết, tôi sẽ cho nổ trái này, tôi với anh cưa đôi.
Nói rồi anh đưa trái lựu đạn vào ngực hắn. Chất thép lành lạnh chạm vào da thịt làm hắn ớn lạnh sống lưng. Ồ, người Việt cộng này dám cưa đôi với mình thiệt. Chỉ có mình, đáng giá gấp ngàn lần hắn mới không dám chết. Hắn nói là làm, dù gì hắn cũng chết. Còn ta, chạy khỏi đây? Chạy khỏi hắn? Nhưng vừa dợm đứng lên, gã đã sợ. Chạy thì vướng mìn, không chạy cũng chết. À, ta cần có người mở đường ra khỏi bãi mìn. Vậy tên Vệt cộng kia còn có ích cho ta. Không thể để hắn chết được…
Gã đã nghĩ đúng. Gã cần có Bằng cũng như bây giờ Bằng cần có gã. Hai người không giúp nhau lúc này thì cả hai cùng chết.
Hắn cầm lấy cuộn băng, sờ lên vai Bằng tìm vết thủng. Hắn đặt miếng gạc vào đó rồi khéo léo băng cho anh. Hắn băng rất thành thạo. Chắc chắn được học ở trường sĩ quan.
Bằng thấy mắt mình hoa lên. Mệt rã rời, nhưng anh không dám nằm xuống. Gục xuống lúc này, anh sẽ là người chiến bại. Bằng tất cả ý chí của mình, anh gượng đứng lên, cầm lấy sợi dây dù rồi nói với người sĩ quan:
– Đưa tay đây.
Gã sĩ quan quay lại phía anh. Anh ráng hết sức còn lại của mình mà cột. Người anh cứ run lên bần bật. Anh cố tự bảo mình: “Ráng lên, gút này nữa thôi, ráng lên! Đừng gục xuống. Nếu mày gục xuống là mày thua nó”. Và rồi sức anh đã tàn. Anh lảo đảo gục xuống.
Bằng còn lờ mờ hiểu được, trước khi khuỵ xuống, nút thắt cuối cùng đã hoàn thành. Ý chí không cho phép anh ngất đi mặc dù sức khoẻ đã kiệt. Anh ở vào trạng thái nửa ngủ nửa thức. Gã sĩ quan cũng ra nhiều máu, cũng rệu rã rồi. Tuy nhiên, nhờ to khoẻ nên hắn còn tỉnh hơn anh chút ít. Hắn không đủ sức giết anh nếu anh còn tỉnh. Hắn ngồi chờ khi anh ngất đi là hắn hành động. Sáng mai, máy bay trực thăng sẽ thấy hắn, sẽ ném dây xuống cứu hắn. Nhưng anh phải ngất hẳn hắn mới dám làm. Hắn sợ anh, trong tay anh còn có trái lựu đạn gài. Nếu anh còn “thức”, hắn hành động, anh sẽ chỉ khẽ buông tay là hắn đi đời.
Bằng ở trong trạng thái như vậy đến nửa tiếng. Ý chí kêu anh phải dậy mà thoát khỏi đây. Sáng mai, máy bay đến là nguy to. Việc của anh đầu tiên là nhặt súng. Anh lắp băng đạn vào súng. Khẩu súng đã hỏng rồi, nhưng anh cần có nó.
Anh loạng choạng đứng lên rồi ngồi xổm đưa tay tìm dây. Bàn chân lại đặt đúng vào chỗ bàn tay đã xoa trên đất.
Trời vẫn tối đen. Chắc là khuya lắm. Bỗng Bằng nhận ra phía chân trời một ngôi sao vừa chui ra khỏi đám mây, nhấp nháy. Anh nhằm hướng có ngôi sao ấy mà đi. Gã sĩ quan thấy anh đi, lại lò dò đi theo. Lần này, hắn không “khôn” như ban nãy nữa, bám thật sát anh. Anh vừa nhấc chân đi là hắn đặt bàn chân của mình vào.
Bất ngờ, có tiếng gà vọng tới. Ở đây gần làng ư? Đây là đâu? Vùng giải phóng hay ấp chiến lược? Bằng chỉ còn kịp nghĩ có vậy rồi lặng người đi. Tiếng gà làm anh xúc động. Những đêm hành quân, Bằng vẫn nghe tiếng gà gáy sáng. Nhưng đêm nay, cái đêm cô độc giữa biển cỏ bao la, như là trên hành tinh xa xôi chỉ có hai người, anh bỗng thấy nôn nao. Tiếng gà như nhắc với anh, sau cái đêm tối tăm này, còn có quê hương, có người thân, vợ con anh…
Và anh sửng sốt. Gã sĩ quan cũng chồm dậy lắng nghe tiếng gà. Hắn đang ở trong tâm trạng như anh. Tiếng gà cho Bằng một nghị lực mới làm anh thấy bình tâm lại. Anh bỗng thèm được nói chuyện.
– Anh là thứ mấy trong gia đình?
– Dạ thứ tư.
– Tôi thứ hai. Chắc là anh đông anh em lắm?
– Dạ, đúng như vậy. Gia đình tôi mười anh em cả thảy. Mấy người đã có gia đình và đi làm công sở.
– Vì sao anh lại phải đi lính?
Câu chuyện bỗng dừng lại sau câu hỏi của anh.
Tiếng gà lại vọng sang. Lần này nó nhắc anh trời sắp sáng rồi. Hãy nhanh lên! Anh lại nhổm dậy nhằm hướng có ngôi sao sáng phía chân trời mà đi tới. Không biết ma lực nào cứ hút Bằng về hướng có ngôi sao sáng phía đó. Ít ra nó cũng làm vật chuẩn để họ nhìn vào đó mà căn đường đi tới, dù không hề biết hướng đó sẽ đến đâu. Nhưng anh cứ tin, cứ đi theo. Vừa đi, tay anh vừa sờ xuống cỏ, bàn tay chạm vào vật lạ. Cẩn thận, Bằng nắm chặt cả búi cỏ. Tay kia thọc vào và xác định đúng là trái gài. Bằng sực nhớ. Có lần một chiến sĩ đơn vị anh nghĩ cách gài không cần dùng lon, không dùng dây mà vẫn rút chốt an toàn. Anh ta gài bằng cách dùng cỏ dài cuộn quanh trái gài rồi vùi vào bụi cỏ bên cạnh. Mỏ vịt bật lên, vướng cỏ, nhưng nếu đụng nhẹ, trái gài sẽ bung ra và nổ. So với các kiểu gài đã kể trên, cách gài này nguy hiểm hơn. Chỉ những người gan “cùng mình” mới gỡ nổi. Khi đã cầm gọn nó trên tay, anh lại dùng kim băng gài chốt. Tháo xong trái gài hóc búa này, Bằng thấy người mệt lả. Ngực anh phập phồng, tim đập rộn lên, tay muốn xuôi xuống. Bàn tay lại đụng vào vật gì cong cong, anh rùng mình: Mìn Clây-mo! Anh không đủ sức nhấc nó lên nữa. Anh sờ theo dây tìm con cóc điện rồi vắt nó sang bên lối đi. Thấy chưa an toàn, anh nhè nhẹ xoay mặt lõm của trái mìn ra ngoài. Nếu có nổ, các anh cũng an toàn vì đây là loại mìn định hướng.
Anh kịp nhận ra gã sĩ quan đang thở hổn hển sát mặt mình. Trời ơi! Hai tay hắn đung đưa về phía trước bắt chước anh. Phải rồi, nãy trói hắn nhưng mệt quá anh thắt không chặt, hắn đã gỡ ra được. Anh gằn giọng:
– Sợi dây trói đâu?
Tên sĩ quan thều thào:
– Tuột ra rồi không biết ở đâu…
Đêm tối như mực. Không nhớ đã đi qua chỗ nào làm sao quay lại tìm. Vả lại Bằng đã mệt lắm rồi, không còn sức mà tìm, trói hắn nữa.
Bằng vẫn lo lắng. Khẩu súng của anh đã hỏng rồi. Bây giờ anh với gã ngang nhau. Hai người cùng bị thương, đều mất máu như nhau. Vậy mà, cớ sao nãy giờ hắn vẫn sợ anh? Anh hơn hắn ở điểm nào? Những ý nghĩ đến với anh thật nhanh rồi lại biến đi thật nhanh. Còn lại nỗi lo về bãi mìn. Tay anh lần đụng một trái mìn khác, đã cầm được nó nhưng sức anh yếu quá. Nếu không đủ sức bóp chặt, mỏ vịt sẽ đẩy những ngón tay anh bung ra và búa đập vào hạt nổ. Anh sẽ tan xác. Anh run run đưa lên miệng để cắn cong chốt an toàn. Răng anh chạm vào chốt thép mỏng manh – cái mỏng manh chặn cả khối sức nổ công phá ghê gớm bên trong. Anh ráng sức cắn. Đã có lúc anh muốn gục xuống, rồi kệ, ra sao thì ra.
Anh lại gượng đứng lên. Như có gì đó trong ngực anh, trong đầu, vực toàn bộ cơ thể anh dậy. Anh lại dò dẫm…
Từ nãy giờ, gã sĩ quan vẫn ngồi sát bên anh. Hắn cũng run bần bật. Hắn yếu đến nỗi phải chống tay xuống đất để khỏi đổ kềnh ra. Hắn biết bây giờ hắn đổ xuống, coi như hết đời. Hắn cũng ráng sức để sống. Tuy vậy, hắn vẫn còn sức hơn Bằng, dù chỉ hơn tí chút. Hắn còn tỉnh để nhận ra Bằng đang đưa trái gài lên miệng, tay run rẩy, vẻ nặng nhọc. Hắn hiểu anh cũng đuối sức rồi. Hắn lo quá, chỉ sợ Bằng không đủ sức bóp chặt mỏ vịt và từ đó mồi lửa xanh lè sẽ phụt ra và hắn tan xác. Tim hắn đập rộn lên. Ngực hắn phồng lên vì phải nín thở. Khi Bằng đưa trái lựu đạn lên cắn chốt an toàn, hắn nhắm mắt lại, miệng thốt lên:
– Cẩn thận, anh Hai!
Tiếng hắn thều thào như hơi gió.
Bằng đặt trái lựu đạn sang bên người, nhón chân bước lên. Hắn lại ngoan ngoãn đặt tiếp bàn chân của mình vào.
*
* *
Cho đến sáng hẳn, Bằng và gã tù binh mới ra khỏi bãi mìn. Cảnh đầu tiên đập vào mắt Bằng là rặng cây xanh xanh phía trước. Phía đó, ngôi sao dẫn đường của anh đã trở nên mờ mờ. Con đường rẽ cỏ còn mới dẫn đến nơi anh ngồi. Xung quanh không còn những tấm bảng báo tử địa nữa. Thận trọng, anh vẫn đưa tay sờ ra xung quanh cả một đoạn đường. Đến lúc không còn gặp vật gì lạ, anh mới nói một mình: “Qua rồi”. Tiếng nói không cất thành lời.
Gã tù binh cũng nhận thấy điều ấy, nhưng chưa dám tin ngay. Hắn chăm chú nhìn theo bàn tay của Bằng sờ ra xung quanh. Và chỉ khi anh nói: “Qua rồi” với những nếp dãn ra trên mặt, hắn mới dám tin nhưng vẫn hỏi:
– Sao, anh Hai?
– Qua bãi mìn rồi!
Gã tù binh chợt cười. Nhưng chỉ vừa hé môi gã đã gục xuống đất bất tỉnh. Sự căng thẳng đã vượt quá sức chịu đựng của gã.
Bằng vẫn ngồi xuống đó, với cây súng hỏng trong tay. Anh chống báng súng xuống đất để làm điểm tựa cho khỏi ngã. Anh ráng sức giữ chặt lấy nó. Anh thấy người cứ quay quay, sắp gục xuống như người tù binh kia. Anh càng bám chặt vào cây súng. Bây giờ gục xuống là gục luôn. Rồi không biết sự việc kết thúc ra sao. Anh và gã tù binh, ai sẽ là tù binh của ai? Chỉ cần một trong hai người tỉnh dậy trước. Mắt anh hoa lên… Không được gục xuống… Không được… tiếng nói nào cứ văng vẳng bên tai. Nhưng rồi anh cũng gục xuống, không tài nào cưỡng nổi.
Người tù binh tỉnh dậy trước. Gã thấy chói mắt dưới ánh sáng ban mai rực rỡ. Cơn mưa đêm qua đã gột rửa tất cả những gì khô khan của cảnh vật. Cây cối xanh lên. Trên các cành cây khẳng khiu, những lộc non vừa hé. Tiếng chim đâu đó lanh lảnh như không hề biết đến chuyện vừa xảy ra đêm qua. Gã dụi mắt, uể oải đứng lên, bước lại bên Bằng. Bỗng gã giật mình lùi lại. Gã bỏ chạy. Nhưng được mấy bước, gã bỗng dừng lại thở, rồi từ từ đến bên Bằng. Gã luồn tay vào ngực Bằng, nâng anh dậy, miệng kêu thảng thốt:
– Anh Hai! Anh Hai!
Bằng vẫn bất động. Gã sĩ quan bước đến chiếc đìa, dùng hai tay vốc nước nhỏ vào miệng, vào mặt Bằng. Đôi môi Bằng mấp máy, rồi từ từ mở mắt. Anh ngồi ngay dậy.
Phản ứng rất nhanh, anh tính chụp lấy súng. Nhưng ngay giây phút đó, Bằng chợt hiểu ra. Anh nở nụ cười, nói với gã sĩ quan:
– Trời sáng rồi à?
– Dạ, sáng rồi.
GIẾNG SÂU
Nguyễn Trường
Mỗi lần đi làm đồng về, dù mồ hôi nhễ nhại, mặt đỏ bừng, áo quần ướt đẫm như vừa dính mưa, Quảng vẫn ào ra giếng, múc vội gàu nước rồi cứ để khuôn mặt đầm đìa mồ hôi vục vào gàu nước, uống ừng ực, nước vào đến đâu biết đến đó. Anh cứ để dòng nước mát chảy lên mặt, lên cổ, lên áo, thật đã khát, thật khoan khoái!
Cả xóm Mới, duy nhất nhà Quảng có giếng, tìm được đúng mạch nước tốt, giếng lại xây bằng loại đá xanh – có lẽ trên đời này khó có cái giếng thứ hai xây bằng loại đá đặc biệt như thế – nên điều kỳ diệu đã đến, nước giếng trong, mát như nước dừa xiêm buổi sáng.
Hôm nay Quảng vừa thả gàu chạm mặt nước, chưa kịp kéo căng sợi dây thì anh nghe tiếng thằng Tí hớt hải chạy về:
– Chú Hòa về! Ba ơi chú Hòa về!
Sợi dây gàu bỗng tuột khỏi tay Quảng, rơi xuống lòng giếng làm nó lật nghiêng rồi chìm nghỉm.
Quảng lẩm bẩm:
– Chú ấy đã về?
Như để trả lời câu hỏi của Quảng, ngoài ngõ tiếng trẻ con, tiếng người lớn gọi nhau, hướng về nhà Hòa, cách nhà Quảng mấy nóc gia.
Quảng bỗng thấy xây xẩm mặt mày, khó thở, tim đập loạn nhịp, anh phải dựa ngực vào thành giếng để khỏi ngã chúi đầu vào lòng giếng. Lúc tỉnh lại, Quảng giật mình nhìn thấy người dưới nước, khuôn mặt méo mó, đôi mắt thất thần. Anh cứ đứng soi mình vào đáy giếng như soi vào chính nơi sâu thẳm trái tim mình.
*
* *
Làng Chế nằm gần ngã ba sông, hợp lưu của con sông Mã và sông Hoạt. Nơi đây gần cửa biển, đất trũng thấp nên mạch ngầm có độ phèn cao, nước giếng có màu vàng như gạch cua, vừa chua vừa chát. Bao đời nay dân làng phải ra tận sông Mã xa đến hơn hai cây số gánh nước về dùng. Dòng sông Mã, đoạn chạy qua Lèn, đổ ra cửa Lạch Trường, ngoại trừ những ngày có lũ, còn quanh năm nước trong ngăn ngắt, ngọt như vừa ở trong nguồn chảy ra.
Thường buổi chiều, khi đã dịu nắng, người làng Chế lại í ới gọi nhau đi gánh nước. Đó là niềm vui bởi họ được ra bờ sông, hứng từng đợt gió mát lồng lộng thổi, nhìn dòng sông rộng, sóng nước nhấp nhô, thuyền bè tấp nập, tiếng leng keng khua cá của đám thuyền chài… Dưới bến sông, các bác nông dân sau một ngày làm lụng vất vả, lấm lem bùn đất đánh trâu xuống tắm. Bầy trâu cũng rất khoái được đằm mình trong làn nước mát. Chúng cũng biết ngụp lặn, chỉ nhô lên cặp sừng cong cong rồi bất ngờ trồi lên mặt nước, thở đánh khì, làm bắn hai cột nước trắng xóa ở hai lỗ mũi. Lũ trẻ con cởi phăng quần áo, trần truồng từ trên đê phóng mình lên cao rồi ôm chặt lấy hai chân, rơi tự do xuống dòng nước. Chúng bơi lội, té nhau, hò hét vang cả một khúc sông.
Chỉ có Liên là không cảm được cảnh thanh bình tươi đẹp của quê mình, bởi chị phải vất vả hơn những phụ nữ khác. Chỉ riêng chuyện gánh nước, mỗi ngày chị đã phải chạy đi chạy về hơn tám cây số. Ngược lại với Liên, Quảng thích nhìn Liên gánh nước. Đôi quang gánh cong cong nhịp nhàng theo bước chạy đẹp như múa. Đối với Quảng, ấn tượng nhất là lúc Liên vo cao hai ống quần, để lộ đôi chân thon dài, trắng ngọc ngà, rẽ nước bước xuống bến sông. Liên lội ra xa bờ, chỗ nước chảy, nước trong và sạch hơn. Liên nắm chặt đôi quang, nghiêng người, vảy nhẹ, hai chiếc nồi đất đã vục đầy nước. Liên nhẹ nhàng rẽ nước lên bờ, đôi chân trần lại xuất hiện, trắng lấp lóa dưới ánh nắng chiều. Cảnh lấy nước ấy đã đi vào tiềm thức của Quảng lâu lắm rồi, từ ngày Liên mới 15-16 tuổi. Nếu Quảng không có vợ sớm, chắc anh đã tỏ tình với Liên. Quảng đành phải nhìn Hòa, em ruột của mình yêu Liên, cưới Liên. Bây giờ Hòa đang ở chiến trường.
Thời gian dần trôi. Liên không còn mảnh mai như hồi thiếu nữ, nhưng chị lại có vẻ đẹp khác, đằm thắm hơn: Bộ ngực căng phồng, mông to và đôi chân chắc khỏe càng làm những đường cong trên người Liên rõ nét hơn, hấp dẫn hơn. Liên được trời phú cho sức khỏe tốt nên từ làn da, đến mái tóc cứ tươi mát, xanh non mơn mởn.
*
* *
Quảng lững thững đi lên bến Hàn, cách bến tắm của lũ trẻ một đoạn, phía trên thượng nguồn. Bến Hàn là đoạn đê xung yếu, được kè bằng đá chống sạt lỡ. Dòng nước ở đây chảy xiết, bờ đê dốc đứng. Tuy nhiên lấy nước ở đây sạch hơn, nước trong hơn. Dạo này Quảng thấy Liên hay ra bến Hàn gánh nước, chắc là chỗ cũ bị trâu và lũ trẻ làm cho nước không còn sạch nữa. Quảng đã tính dặn Liên đừng ra bến Hàn lấy nước, nguy hiểm. Tuy chưa có dịp nói, nhưng hễ Liên lên bến Hàn là Quảng bám theo, anh lo cho Liên.
Bữa đó Liên ra bến Hàn muộn hơn mọi khi, nắng đã tắt, tuy vậy trời còn sáng. Sông Mã về mùa thu nước trong có thể nhìn thấy những đàn cá bơi lội tung tăng lấp lóa dưới đáy sông. Sau khi đặt quang gánh xuống, Liên vấn cao mái tóc, xắn quần quá gối, để lộ đôi chân trắng nuột, từ từ lội xuống nước. Chỗ này đá gập ghềnh, Liên không thể đi nhanh như dưới bến tắm thoai thoải bờ cát. Quảng giật mình thấy hai tay Liên chới với, chị té nhào làm bắn nước lên tung tóe. Dòng nước xiết nuốt chửng lấy Liên, kéo ra xa. Tay Liên đập loạn xạ trên mặt nước. Rõ ràng Liên không biết bơi. Nhanh như con báo đuổi theo con nai, Quảng nhảy ùm xuống sông, thoăn thoắt rẻ nước tiến về phía Liên. Anh kịp nắm được tay chị. Người chết đuối thường có phản xạ, vớ được gì liền nắm chặt lấy. Quảng bị Liên ôm chặt, còn dìm anh xuống. Nếu là người không có kinh nghiệm, rất dễ dẫn đến cảnh hai người cùng dìm nhau mà chết. Nhưng Quảng đâu phải tay vừa, anh bình tĩnh nhoi người lên mặt nước hít đầy không khí vào lồng ngực rồi ôm Liên lặn sâu xuống đáy sông. Liên không kịp chuẩn bị nên bị ngộp thở, không còn sức để ôm chặt lấy Quảng. Lúc đó Quảng mới đạp mạnh chân xuống đất, ôm gọn Liên phóng ngược lên mặt nước. Một tay cắp Liên, một tay anh bơi đưa Liên vào bờ.
Quảng vác ngược Liên lên vai, xóc đều làm nước từ trong dạ dày Liên ọc hết ra miệng. Liên vẫn còn bất tỉnh, phổi đã ngừng thở, có lẽ tim cũng đã ngừng đập. Quảng đã được học qua việc cấp cứu, hô hấp nhân tạo. Anh thực hành ngay bài học. Một tay Quảng banh mồm, tay kia bịt mũi nạn nhân, anh hít một hơi dài rồi thổi vào miệng nạn nhân. Sau đó anh để tay trái lên lồng ngực nạn nhân dùng trọng lực của cơ thể ấn xuống với tốc độ vừa phải, nhịp nhàng, làm cho tim của Liên đập trở lại. Hơi thở của Liên đã trở nên đều đều.
Liên mở mắt, người đầu tiên nhìn thấy là Quảng. Phải một lúc, khi Quảng dìu Liên ngồi dậy chị mới nhớ lại những gì vừa xảy ra. Liên e thẹn kéo lại chiếc quần xộc xệch, cài lại cúc áo vừa bị bật ra. Nghĩ đến trường hợp Quảng ôm mình, ấn tay lên ngực mình, Liên thấy hai má nóng bừng. Chị nhìn Quảng với ánh mắt dịu dàng xen lẫn lòng biết ơn.
*
* *
Quảng đã thay đổi sở thích ngắm Liên xắn quần lội xuống bến sông múc nước. Anh ước ao giá như mình đào được cái giếng có nước ngọt thì đỡ vất vả cho Liên. Nhưng đào giếng ở đâu để có nước ngọt? Phủ Chế nằm ở trên gò đất cao cuối làng, có nhiều cây cối sum sê, phải chăng cây cối ở đây hút nước ngọt dưới tầng sâu nên tươi tốt?
Quảng rủ mấy bác nông dân ra phủ Chế nhằm chỗ cây cối tốt nhất đào sâu xuống. Quả nhiên có nước ngọt. Mọi người reo lên, còn Quảng nhảy choi choi như một đứa trẻ trước sự kiện kỳ lạ này.
Có nước là có sự sống, Quảng quyết định dời nhà ra phủ Chế. Anh còn rủ được hơn chục hộ khác ra đây dựng nhà. Bà con hăm hở theo anh vì địa thế nơi đây vừa cao ráo, thoáng mát lại vừa có nước ngọt. Mấy tháng sau, phủ Chế trở nên đông vui, trong số đó có nhà của mẹ con Liên.
Bữa đào giếng, Quảng đã “khảo cổ” được một lô một lốc tượng được tạc bằng đá xanh, có cả tượng ông Phủ. Nghe đâu cách đây bốn năm thế kỷ, ông Phủ có công với triều đình, được vua phong đất, cho lập phủ thờ. Hồi trước cải cách ruộng đất, phủ Chế thiêng lắm. Quảng nhớ rõ trong phủ thờ ba vị tiên thánh, nhị vị thánh bà, nhị vị đức ông và rất nhiều tương Phật. Riêng nhị vị đức ông đứng ngoài hiên, mỗi ông cầm một cây thanh long đao, uy nghi như Quan Công thời Tam Quốc. Trẻ con cưỡi trâu đi qua cổng phủ, phải tuột xuống đi bộ, nếu không sẽ bị ông Phủ hành tội. Cuộc cách mạng long trời lở đất năm 1954-1955 diễn ra, người ta thể hiện tinh thần đoạn tuyệt với quá khứ phong kiến bằng cách phá tan những nơi thờ cúng, đền chùa, miếu mão. Bắt đầu từ Nghè trước, phe Văn, phủ Chế, cuối cùng là đình làng.
Những pho tượng bằng đá xanh gợi cho Quảng việc xây giếng. Loại đá này tốt, có đến muôn đời nước cũng không ăn mòn được. Ôi, Phật cũng được làm từ đá, thì nay hãy trở về với đá!
Nhiều năm về sau, người làng Chế vẫn còn kể lại cảnh Quảng vung búa tạ phang vào đầu các bức tượng. Bữa đó sau hai nhát búa tạ bổ xuống đầu ông Phủ tóe lửa, tượng vẫn không hề sứt mẻ, Quảng bỏ búa, chắp tay trước ngực khấn:
– Xin lỗi các ông. Nếu để các ông nằm lăn lóc ở đây rồi người ta sẽ làm ô uế các ông mất. Hãy để tôi đưa các ông xuống giếng, các ông vừa yên thân vừa được tắm mát quanh năm.
Khấn xong, với cánh tay rắn chắc, Quảng vung búa, lấy hết sức bình sinh đập vào đầu ông Phủ. “Choang”, một tiếng nổ khô khốc, bức tượng bỗng vỡ ra thành nhiều mảnh.
*
* *
Từ ngày được xây bằng đá xanh, giếng nhà Quảng vừa đẹp vừa cho nước trong hơn, ngọt mát hơn. Giếng trở thành điểm đến của bà con xóm Mới. Mọi người rất phấn khởi, khen Quảng không tiếc lời. Liên lại thấy hành động của Quảng có cái gì đó không ổn, chị cứ lo lo…
Chiều nào cũng vậy, sau khi múc nước từ giếng lên, đổ tràn bể nước nhà mình, Quảng lại xách nước sang đổ đầy hai chum nhà Liên. Nhờ có Quảng, Liên cũng đỡ vất vả hơn. Hoàn cảnh của nhà Liên làm Quảng cứ phải quan tâm. Chồng thì cứ đi xa biền biệt, mấy năm rồi chẳng nhận được tin tức gì. Nhiều lúc Quảng bắt gặp Liên khóc, nhất là khi trong làng có người hy sinh, làng làm lễ truy điệu. Nhiều đêm Liên mơ thấy Hòa về, nhìn chị, không nói gì. Liên nhào đến thì Hòa lại lùi ra xa rồi biến mất. Liên kể về giấc mơ của mình, nhiều người nói, đó là điềm gở.
Quả đúng như giấc mơ của Liên, nửa năm sau tin Hòa hy sinh đã bay về xã, sau đó là giấy báo tử, rồi người ta làm lễ truy điệu. Những ngày đó nếu không có Quảng, chẳng biết Liên sẽ sống ra sao.
Trai tráng trong làng hết đợt này đến đợt khác ra mặt trận. Làng chỉ còn lại toàn đàn bà, ông bà già và trẻ con. Nếu không có bố hy sinh ở Điện Biên Phủ, em trai đang ở mặt trận, rồi hy sinh, chắc Quảng cũng không có mặt ở làng. Quảng trở thành “mì chính cánh” trong con mắt chị em phụ nữ. Tuy nhiên, Quảng không để ý đến ai ngoài Liên. Liên ở vào lứa tuổi ngoài hai mươi, cái tuổi tràn đầy sinh lực. Lấy chồng mà có được gần chồng mấy đêm. Nhiều hôm Liên thấy thật cô đơn. Chị xao xuyến khi nghĩ đến vòng tay của một người đàn ông. Mà trong làng có còn ai là đàn ông ngoài mấy ông già đã hết hơi, đã lẩm cẩm. Chỉ còn có Quảng. Chồng Liên lại rất giống Quảng. Nhiều lúc nhìn Quảng xách nước, lạch bạch chạy từ giếng về, Liên cứ ngỡ đó là Hòa.
Chiều hôm ấy, sau khi đổ xong hai thùng nước vào chum nhà Liên, Quảng ngẩng lên gặp Liên đang tắm trong cái nhà tắm mà chính anh đã dựng cho Liên. Nhưng vì lâu ngày những tấm phên nứa đã mục hở mấy lỗ, Quảng nhìn thấy thấp thoáng mảng da thịt trắng nõn nường của Liên. Đầu óc Quảng quay cuồng như vừa uống một ly rượu mạnh.
– Anh Quảng lấy hộ em chiếc khăn…
Tiếng Liên có gì không bình thường.
Quảng chạy lại dây phơi, giật vội chiếc khăn. Anh tính ném chiếc khăn vào phòng tắm cho Liên thì như một định mệnh, cơn gió lớn ào đến làm bật tung cánh cửa phòng tắm. Quảng sững sờ nhìn thấy Liên vội ôm lấy bộ ngực trần ngồi thụt xuống. Quảng bước vào phòng tắm như một người mộng du…
*
* *
Chuyện của Quảng và Liên trở thành đề tài bàn tán trong làng ngoài xóm. Vợ Quảng là người biết chuyện sau cùng. Nhưng chị cũng không dám làm to chuyện, dẫu sao cũng là chuyện trong nhà. Cái thai trong bụng Liên lớn dần làm cho gia đình Quảng không thể “đóng cửa bảo nhau” được nữa. Đó là mối nhục của gia đình, dòng họ…
Năm 1967, máy bay Mỹ ra miền Bắc đánh phá rất ác liệt. Các địa phương đều có đội dân quân trực chiến bắn máy bay khi chúng sà xuống thấp. Đội dân quân của Quảng được trang bị hai khẩu 12 ly 7 và mười khẩu súng trường. Đội dân quân đã đánh mấy trận với máy bay Mỹ. Quân Mỹ cũng phát hiện ra trên núi Thạch Quỳ có lực lượng phòng không nên gọi máy bay đến ném bom. Lửa bùng lên, tiếng bom nổ long trời, khói trùm lên mù mịt, khét lẹt, tiếng máy bay xé gió, tiếng rít của đạn rốc-két… Nhiều người bỏ chạy vào hầm trú ẩn. Chỉ có Quảng vẫn hiên ngang tì vai vào báng súng, nhằm thẳng vào máy bay Mỹ nã đạn.
Tinh thần chiến đấu của Quảng được nêu gương cho các địa phương khác trong tỉnh học tập. Chỉ Liên hiểu thật hành động của Quảng. Nếu anh hy sinh trong chiến đấu, may ra mới gột rửa được vết nhơ trong gia đình.
Quảng không né tránh bom đạn, thì bom đạn lại né tránh anh. Anh muốn chết mà trời cứ bắt phải sống, sống để đối diện với những sai lầm của chính mình.
*
* *
Hòa quả là người từng trải – qua lửa đạn sống chết trở về có khác. Hàng xóm không nghe thấy vợ chồng Hòa cãi nhau. Ngày anh về, bà con đến thăm, chỉ thấy anh cười rất tươi. Cuộc chiến ngoài mặt trận mới là việc lớn, đáng để kể, còn chuyện của Liên chỉ là “chuyện nhỏ”. Người ta thấy anh đối xử với đứa con “cải thiện thêm” của Liên rất nhân ái. Nhưng hình như mặt nước lặng sóng chưa chắc không có sóng ngầm dưới đáy sâu. Hoàn cảnh của Hòa buộc anh phải xử sự như vậy, anh không thể la mắng vợ, càng không thể bỏ vợ vì dù sao để xảy ra chuyện động trời đó lại chính là anh trai mình. Dư luận trong làng cứ xì xào, người ta đoán già đoán non và chờ đợi điều gì đó sẽ xảy ra.
Điều đó đã xảy ra thật! Cả xóm Mới xôn xao đổ dồn đến giếng nhà Quảng. Một người đàn ông đưa từ đáy giếng lên thi thể người đàn bà. Người ta xốc nước, làm hô hấp nhân tạo nhưng đã quá muộn, Liên không thể sống lại như lần chị chết đuối năm xưa.
Cái giếng duy nhất ở xóm Mới không còn ai dám đến lấy nước nữa. Không lâu sau, nước bỗng trở màu gạch cua.
Vanvn.net
Phạm Thúy Quỳnh đưa bài