Phan Thành Minh
Nhà thơ Phan Thành Minh, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Lâm Đồng, đã in 9 tập thơ và có nhiều thơ in trên các báo trung ương, địa phương và được trao nhiều giải thưởng thơ văn học. Trong thơ Phan Thành Minh, các nét văn hóa và hình ảnh dung dị về đời sống các miền quê luôn là cảm hứng chủ đạo khiến thơ anh gần gũi với tình người, tình đất. VANVN.NET giới thiệu chùm thơ của anh.
Nhà thơ Phan Thành Minh
CHỢ LÀNG
Chợ làng lổn ngổn thúng quang
Líu lo chào hỏi
Rộn ràng lời rao
Ngát hương đồng nội ngọt ngào
Chưa tang tảng sáng đã lao xao người
Chợ làng giòn rụm rau tươi
Thừa câu nhân ngãi
Thiếu lời đẩy đưa
Bốn mùa dầu dãi nắng mưa
Cá tôm đợi mẹ hờn trưa trách chiều
Bước qua từng ngưỡng đói nghèo
Cải dưa khát mắm
Đậu đèo khát tương
Người đi từ buổi gió sương
Hồn quê rười rượi nhớ thương chợ làng
CƠM QUÊ
Dẻo thơm cơm gạo vườn nhà
Rô non xối mỡ tương cà dầm cay
Cua đồng o bế rau đay
Mắm tôm đậu phụ lót tay sả riềng
Ngon cơm nhờ có bạn hiền
Rượu đong giáp quận ly chuyền thâu canh
Sớt san đùm bọc rách lành
Đồng tâm hợp ý mà thành mai sau
Giáp mùa chẳng phải lo âu
Sắn khoai tiếp bữa cho nhau tới cùng
Chuối non đậu rán ốc bung
Cơm no bò cưỡi vẫy vùng tây đông
Lạch luồng chiu chắt nên sông
Gian lao đi giữa những vòng hoa mưa
Ruộng sâu mỏi rã chân bừa
Mo cơm xởi lởi tương dưa thanh bần
Đêm về vất vả dừng chân
Bếp rơm thả lỏng những vầng khói cay
Bẵng quên xì xụp điếu cày
Trèo lên gác nguyệt lần tay hái tình
NGÔN NGỮ ĐẤT
Có dòng sông không bao giờ ngủ
Có con đường không một khúc quanh
Có câu thơ hoá thành bất tử
Vất vả gian lao mới nên luỹ nên thành
Cỏ vẫn mọc trên cánh đồng khánh kiệt
Khói rơm cay ấm vị quê nhà
Hạt lúa theo người từ tiền kiếp
Lũ lụt dâng đời nước mắt, phù sa
Người này vừa lòng
Người kia xót xa
Gieo cấy mong mưa
Cày bừa mong nắng
Nơi này hạn khô
Nơi kia lũ trắng
Đất có ngôn ngữ riêng nhưng phải lặng thầm
Lời vu vơ có khi giận trăm năm
Tình bất chợt có khi thành bất tử
Có tiếng nói không làm nên ngôn ngữ
Có nụ cười đâu phải của niềm vui
Bom đạn chiến chinh…ngôn ngữ ngậm ngùi
CHIỀU QUÊ
Trôi về phía nắng đang phai
Trâu con cõng tiếng học bài trên lưng
Hạ phơi chân đất đầu trần
Thơm vào quả chín ngọt dần gió thu
Cành cao buông tiếng chim gù
Võng đưa kẽo kẹt lời ru xóm giềng
Sông đầy cắm mảnh trăng nghiêng
Nhịp chày xao động lòng thuyền đang vơi
Khói rơm vẽ dáng mẹ ngồi
Bát cơm đẫm vị mồ hôi tảo tần
Bếp nghèo khoai sắn theo chân
Bữa quê chín giữa hai lần sớm hôm
Lời vui chật cứng chiếu rơm
Cháo rau đã hoá thành cơm nuôi ngày
“ Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần ”
NGÀY ANH VỀ
Chỉ là đôi dép lốp thôi
Chạnh lòng đất trả…
Mẹ ơi…anh về
Đã thành con của hai quê
Máu xương chứng giám câu thề kiên trung
Bao năm ngang dọc vẫy vùng
Đạn bom lửa khói điệp trùng bủa vây
Miệt mài nam bắc đông tây
Vẫn đôi dép lốp đêm ngày sóng đôi
Ngọt ngào chưa kịp bén hơi
Nợ duyên đất ngậm
Mẹ ơi…buốt lòng
Xương dâu thịt sét tiểu sành
Tay mình chạm khúc ruột mình mà đau
Chiến tranh khép lại đã lâu
Vẫn đau cốt nhục
Vẫn sầu tóc tang
Rưng rưng lệ nến tuôn tràn
Khóc xanh
Thương mẹ…lá vàng…lắt lay
XUÂN VÙNG CAO
Anh gùi mùa lên nương rẫy
Nắng xăm tím biếc nụ cà
Níu trời ruộng cao em cấy
Rét ngọt vén áo cẩm hoa
Ngựa thồ oằn lưng khoai sắn
Dắt dìu nhau xuống chợ phiên
Câu hò chơi trò rồng rắn
Nụ cười lúng liếng môi duyên
Thắng cố thơm mùi xuân chín
Rét đông ngọt bát Sán Lùng
Ngựa vác ông chồng về bản
Vợ cười xuân hết cỡ xuân
Xinh em ghen thầm lá cỏ
Thoi dệt thoăn thoắt lại qua
Nhanh tay hoàn thành khăn thổ
Tặng người chiến sĩ Trường Sa
Ngọn lửa bập bùng đêm hội
Này xuân nhảy với lũ làng
Đâm trâu thủng nồi cơm mới
Chiêng cồng khoái chí cười vang
HƯƠNG ĐỒNG
Thắp trời tháng ba hoa gạo
Nở thơm lanh lánh đường bừa
Đon mạ xanh rì tần tảo
Lưng còng chấm xuống già nua
Rơm rạ âm thầm trả nghĩa
Mục hoai xanh thắm chiêm mùa
Lở bồi sông từ hai phía
Giàu nghèo quanh quẩn được thua
Chân đất đầu trần khoác nắng
Khoai lùi cười cợt nồi niêu
Đó đơm úp vào thinh lặng
Tre cong câu ngác ngơ chiều
Gửi lòng lên trang giấy trắng
Ơn mẹ chín chữ cù lao
Ơn cha dãi dầu mưa nắng
Ơn người đồng cạn đồng sâu
Dẫu đi cho hết địa cầu
Chẳng công lao nào hơn mẹ
Mãi mãi ta là nhỏ bé
Mãi mãi ta là rạ rơm
LỤC BÁT QUÊ
Câu lục cắm nước sông Hồng
Để anh câu bát cấy trồng ươm gieo
Nước lên san sớt khó nghèo
Sắn khoai thấm đẫm thương yêu nồng nàn
Bất an bông cải nở vàng
Vại chum thầm thĩ tính toan mọi bề
Mệt nhoài lũ gió triền đê
Lỏng lơi tay quạt mơ về giấc hoa
Vàng rơm vàng cả chiều tà
Cạ sừng vào nắng trâu già ngắc ngư
Củ nêm mật đất ngọt lừ
Tép tôm cõng đuối khoai từ khoai đao
Đủ thơm cho thoả ngọt ngào
Tóc xua hương bưởi bay vào thương yêu
Gánh về gánh cả nắng chiều
Ơn em tần tảo nồi niêu đủ đầy
Nắng mưa gừng quế vẫn cay
Lở bồi sông vẫn dạn dày hơn thua
Trăm năm chia chẵn bốn mùa
Thiếu thừa trừ cộng còn vừa vặn em
VỀ ĐỒNG THƯƠNG NẮNG THƯƠNG MƯA
Về đồng gặt vụ ca dao
Gánh sang đất mặn gieo vào bùn chua
Nhặt câu tần tảo sớm trưa
Thương sao cho hết nắng mưa dãi dầu
Nợ duyên giỏi giang bắc cầu
Sảy sàng xay giã làm dâu quê mùa
Muộn chồng rau cũng thèm chua
Cải cay mướp đắng bỏ bùa tép tôm
Tiếng cười vây ráp niêu cơm
Chiêm mùa tẻ tám thảo thơm đưa ngày
Rỗi nhàn nhắp chén rượu cay
Vén đêm ngẫm lại đường cày nông sâu
Thay lời cây nói bằng màu
Cỏ giăng lưới thiện
Tre câu móc lành
Lá hoai mục dưỡng lá xanh
Kiên gan cây lúa mỏng manh đội trời
Thắp tình qua tiếng nói cười
Sáng câu nhân ngãi
Sáng lời tri âm
Cau trầu gõ cửa trăm năm
Nào ai “ đánh bắt ” xa xăm chóng về
TÌNH QUÊ
Giếng mờ năng múc cũng trong
Môi em siêng nở nên hồng quanh năm
Óng tơ đau đứt ruột tằm
Ngọt lời hả dạ tri âm kim bằng
Oằn vai gian khó nhọc nhằn
Thoả vui ruộng nẻ đất cằn thay da
Tảo tần đã kết thành hoa
Chiêm mùa đã trổ thành ca dao làng
Cuộc người mây hợp mây tan
Một vuông vải tám mấy hàng bình sinh
Nhá nhem thế thái nhân tình
Một chung quan họ mấy bình lễ nghi
Trầu têm têm cả nghĩa nghì
Được lòng được cả đường đi lối về
Tình nào hơn được tình quê
Nghĩa nào hơn được phu thê đạo đồng
Vanvn.net
Phạm Thúy Quỳnh đưa bài