1. Từ sau thời kỳ Đổi mới, tính từ mốc 1986, chúng ta đã chứng kiến những đổi thay quan trọng trong đời sống văn học. Tinh thần thời đại đã thổi vào đời sống văn học một không khí mới mẻ, tạo nên sự sôi nổi nhộn nhịp trong hoạt động sáng tác cũng như phê bình. Đối tượng thực sự của phê bình lúc này là toàn bộ văn học thời kỳ 1945-1975, đặc biệt là những tác phẩm văn xuôi mới chào đời còn thơm mùi giấy mực. Có rất nhiều bài phê bình kịp thời đi vào phân tích, đánh giá về ký, phóng sự của Phùng Gia Lộc, Trần Huy Quang… Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài thường xuyên là đối tượng thu hút sự quan tâm của giới phê bình. Đầu những năm 90 của thế kỷ trước, hàng loạt tiểu thuyết của Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khắc Trường, Bảo Ninh, Chu Lai… trở thành tâm điểm, được bàn bạc thảo luận trên các mặt báo và trong các cuộc hội thảo. Tuy nhiên, nếu như quan sát kỹ sẽ thấy một thực trạng đáng buồn đối với thơ ca – thể loại thường được đánh giá là có những bước phát triển mới cả về nội dung và hình thức. Thời kỳ văn học đổi mới rầm rộ nhất, trong khi thơ vẫn thường xuyên được báo chí và các nhà xuất bản đăng tải với số lượng rất lớn thì hầu như thể loại này không thuộc phạm vi quan tâm chú ý của các nhà phê bình. Đi tìm nguyên nhân của hiện tượng này không đơn giản. Nhưng theo tôi, nguyên nhân chủ yếu vẫn là ở chỗ những tác phẩm thơ (có thể hay) nhưng chưa đặt ra được những vấn đề buộc người ta phải bàn bạc, tranh luận. Trường hợp những bài thơ, những tập thơ “có vấn đề” xuất hiện vào thời gian sau này đã khuấy động đôi chút không khí tù đọng của công việc phê bình thơ.
2. Thời gian trước đây khi điểm tình hình thơ của một giai đoạn, của một năm, người viết có thể không khó khăn lắm khi liệt kê danh sách các tập thơ đã xuất bản để đưa đến một cái nhìn khái quát về thực trạng, về các vấn đề của thơ nói chung. Ở thời điểm hôm nay đó là một việc không thể thực hiện được. Do khối lượng thơ xuất hiện quá nhiều. Việc xuất bản thơ vẫn tiếp tục đi theo con đường khá thoải mái. Hình thức xuất bản chủ yếu vẫn là do các tác giả tự bỏ tiền. Hầu như bất cứ ai làm thơ, nếu có tiền đều có thể in được thơ. Cả nước có hơn năm mươi nhà xuất bản, gần như nhà xuất bản nào cũng có thể in thơ. Chưa bao giờ số lượng các tập thơ ra mắt bạn đọc nhiều như hiện nay. Có ý kiến cho rằng việc in ấn thoải mái như vậy sẽ tạo điều kiện cho thơ phát triển, tránh được việc chờ đợi xếp hàng ở các nhà xuất bản, thậm chí có thể tránh được tình trạng những tập thơ hay của các tác giả trẻ không được ra đời. Nhưng thực tế, sự bung ra ồ ạt như hiện nay đã khiến cho đời sống thơ ca bị nhiễu loạn. Nó làm cho người đọc bị bão hoà, thờ ơ, chán nản khi đọc thơ. Việc những tập thơ kém chất lượng ra đời cũng là một nguyên nhân không nhỏ khiến người ta quay lưng lại với thơ. Đời sống thơ ca cũng bị thơ nghiệp dư tràn lấn. Nó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự “loạn chuẩn” trong phê bình thơ.
Trước một thực tế sáng tác, in ấn phong phú và đa dạng như vậy, công việc của người phê bình thơ trở nên rất cần thiết và vô cùng nặng nề. Nhưng nhìn vào thực tiễn phê bình thơ có thể thấy rằng công việc này chưa đáp ứng được yêu cầu của đời sống thơ ca. Nó không làm được trách nhiệm hướng dẫn người đọc, càng không làm được chức năng xác lập những hệ thống thẩm mỹ mới cho việc đánh giá thơ ca thời nay. Phê bình thơ bây giờ rất khó. Ít có những nhà phê bình chuyên tâm với thơ. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn có đưa ra một cách giải thích mà tôi thấy rằng tương đối tiêu biểu cho suy nghĩ của những người trong cuộc: “Gần đây, tôi ngại đọc thơ hẳn đi, văn xuôi hấp dẫn tôi hơn, đúng hơn đến với văn xuôi, tôi không phải ngại ngần e dè như đến với thơ. Đọc thơ sao khó khăn thế! Cầm tập thơ rất mỏng trên tay, nhiều khi cứ thấy ngại, và đọc xong, đầu óc mung lung, khó lòng nói một cách dứt khoát là hay hay dở” (Tâm sự một người viết phê bình, báo Văn nghệ số 37/1985). Phải chăng sự e ngại ấy đã dẫn đến tình trạng lý luận phê bình chưa làm được nhiệm vụ cổ vũ, hỗ trợ cho sự phát triển của thơ? Gay gắt hơn, khi có một tác giả vừa là nhà thơ, vừa là người tham gia khá tích cực vào các hoạt động phê bình thơ đưa ra nhận xét rằng: “Bây giờ cũng như mọi thời, làm cho cái hay của thơ đến được mọi người là nhờ các nhà phê bình thơ. Nhưng làm cho người đọc “kính nhi viễn chi” lảng xa thơ cũng có “công đầu” của các nhà phê bình” (Vũ Quần Phương, Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1990). Ý kiến này có những điều “bất cập”, nhưng không phải là không có những hạt nhân hợp lý. Một số nhà phê bình hiện nay còn yếu cả về hai mặt: khả năng cảm thụ nghệ thuật và kiến thức về kỹ thuật làm thơ. Phê bình thơ chưa tạo ra được môi trường, chưa hình thành một đội ngũ chuyên nghiệp, góp phần vào việc định hướng dư luận, định hướng sáng tác. Đối với những tác giả mới xuất hiện, những tập thơ “có vấn đề” còn có hiện tượng phê bình một chiều, thiếu ý kiến tranh luận, trao đổi, bàn bạc dân chủ. Trên báo chí còn để tình trạng xuất hiện những bài phê bình thơ yếu về cảm thụ, khen chê không đúng nên thiếu sức thuyết phục. Phê bình nếu như làm được đúng chức năng của nó sẽ có tác dụng rất lớn, đề xuất và tác động vào sự hình thành các tác giả thơ. Phê bình cũng như sáng tác đều rất cần hít thở không khí dân chủ và đối thoại trung thực, cần đến sự tôn trọng cá tính sáng tạo của mỗi cá nhân.
3. Phê bình thơ khác phê bình văn xuôi, ở chỗ nó ít được nương tựa vào đối tượng miêu tả, vào cái gọi là đề tài. Với văn xuôi, đề tài có vai trò quan trọng, quy định khá rõ nội dung phê bình.
Đề tài của văn xuôi là rộng rãi vô cùng tận, trải khắp không gian và thời gian cuộc sống con người và không giống nhau. Chỉ riêng sự khác nhau trong muôn mặt đề tài đã có thể quy định sự khác nhau trên các lĩnh vực mô tả của văn xuôi. Chỉ dựa vào đề tài, vào việc miêu tả cái gì – phê bình cũng đã có thể thông báo một điều gì đó, nếu không phải là quan trọng nhất, thì cũng là cần thiết và không thừa đối với người đọc…
Trong khi đó, cái gọi là “đề tài” trong thơ là hẹp, là ở một quy mô nhỏ, bởi đây chỉ là sự giống nhau hoặc khác nhau trong bấy nhiêu tình cảm muôn thuở của con người. Thơ về cơ bản, và như lịch sử hiện diện của nó, từ xưa đến nay, cả phương Đông và phương Tây, là những biểu hiện, những nhu cầu bộc lộ của đời sống bên trong con người, là sức chứa và sắc thái của nội tâm, là vui buồn, yêu ghét… nẩy ra trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với ngoại cảnh…
Tất nhiên, sự phong phú và khác biệt trong các trạng thái tình cảm của con người vẫn là cả “một thế giới” cho thơ khai thác, bởi cuộc đời và con người là cả một vũ trụ kỳ diệu và biến hoá không cùng. Cũng là bấy nhiêu vui buồn, yêu ghét nhưng mỗi thời mỗi khác, mỗi nơi mỗi khác, mỗi người mỗi khác…
Chính vì không phải chủ yếu là kết quả của sự quan sát, và trải rộng sự quan sát trong không gian và thời gian như văn xuôi mà chỉ là sự chiêm nghiệm, đào sâu vào thế giới bên trong con người, để có thơ, nên phê bình thơ nghiêng về một phương thức tiếp cận khác: không phải là sự thức nhận; mà là cảm nhận. Không nghiêng về suy tư (trừ thơ triết lý) mà là cảm xúc và rung động; không hướng về phía vĩ mô của thế giới người mà thu hẹp vào những biểu hiện tinh vi, tế nhị của hồn người. Bởi thơ là loại hình cho ta đi vào nội tâm một người để hiểu mọi người, và phê bình thơ là tạo nên cái cầu nối cho mối giao cảm đó. Và do vậy mục tiêu và đối tượng của sự nắm bắt trong phê bình thơ không phải là khách thể, là cái ngoại giới được miêu tả, mà chính là tác giả, là chủ thể trữ tình của sự biểu hiện. Phát hiện của phê bình thơ (tất nhiên đây là thơ trữ tình, chứ không phải là các loại thơ khác) do vậy là phong cách, là giọng điệu. Một nhà thơ có giá trị là một nhà thơ có phong cách. Một nền thơ lớn là một nền thơ có nhiều phong cách. Chưa có phong cách thì chưa thể nói đến một nền thơ. Và phê bình thơ, trước một đối tượng như vậy, quả là vô nghĩa. Phát hiện ra giọng điệu riêng, phong cách riêng – nó là cái tinh tuý, cái đặc sắc của mỗi nhà thơ, để không lẫn với ai – đó là mục tiêu của phê bình thơ.
Thời đổi mới tính từ những năm 90, theo tôi hiểu là sự trở lại cái riêng, sau một thời kỳ cả nền thơ hướng tới một khuôn mặt chung “Những năm đất nước có chung dáng hình, có chung khuôn mặt”. Bây giờ là thời của đơn ca – nhưng để có phong cách riêng được công nhận là rất khó. Và tiêu chí hay – dở chung cho tất cả bỗng trở nên mơ hồ, khó mà phân biệt được. Bởi nó là sự khác nhau giữa nhiều thế hệ, nhiều xu hướng, nhiều thị hiếu, nhiều cách viết… Có nhiều kiểu người viết thì cũng có nhiều kiểu người đọc. Trong tình thế mới này, người phê bình đã hết vai trò là người hướng dẫn, hoặc đại diện cho ai. Không thể đại diện cho ai, nhưng vẫn phải có một chủ kiến của mình, có một tiêu chuẩn hay – dở cho mình, để thích hoặc không thích, tán thành hoặc phản đối, khen hoặc chê… Và do thi đàn không còn chiếu trên, chiếu dưới, nên người phê bình có phần tự do và thoải mái hơn, để không phải nhìn vào đó mà điều chỉnh liều lượng khen chê cho phù hợp.
Khi mà số người làm thơ bỗng trở nên rất đông, khiến cho ai cũng có thể làm thơ, in thơ thì việc bao quát diện mạo thơ là khó, và nhận diện hay – dở càng khó hơn. Phê bình thơ rút lại chỉ còn là việc đọc, điểm một cách tuỳ tiện, và chẳng ai chịu ai trong việc khen – chê, kể cả những giải thưởng lớn, nhỏ, cũng khó tìm được sự nhất trí trong giới phê bình và bạn đọc. Khi mà phong trào thơ còn ngổn ngang như vậy thì việc tìm một tiếng nói chung, hoặc một phong cách nổi bật được mọi người chấp nhận là không dễ, công việc phê bình càng trở nên khó khăn hơn. Gần như người làm thơ nào cũng muốn tìm tòi – cho khác người, nhưng chưa tìm ra lối, chưa đạt được hiệu quả nghệ thuật như mong muốn. Phê bình thơ bối rối là lẽ đương nhiên. Và càng bất lực trong việc chỉ ra lối đi và mục tiêu cho cái thời mà mọi chỉ giới cho đúng – sai, xấu – tốt, hay – dở gần như rất khó xác định.
Không còn cái chung để mà tựa thì phải tựa vào chính mình. Phê bình cũng vậy, phải xác định cho được tiêu chí hay – dở ở chính bản thân mình và chính trong thơ. Nhưng dù có cô lập nó ra khỏi đời, thì thơ vẫn là sản phẩm của chính con người – con người của cái thời mà nó hiện diện. Nếu thơ đang trong một cuộc tìm, thì phê bình thơ, dẫu là đi sau hoặc đi trước, vẫn phải sao cho hội được vào cuộc tìm kiếm đó.
Phê bình văn xuôi nếu đang hướng sự chú ý vào phương thức biểu hiện thay cho nội dung biểu hiện, thì phê bình thơ – sự bối rối nằm ở cả hai: sau chữ phải là nghĩa, nhưng sau chữ còn là “bóng chữ”.
4. Những năm 30 của thế kỷ trước, Albert Thibaudet – nhà phê bình văn học Pháp đã phân chia các nhà phê bình thành ba loại: phê bình nói, phê bình chuyên nghiệp và phê bình của những nhà sáng tác (Theo cuốn Phê bình văn học Pháp, Lộc Phương Thuỷ chủ biên, NXB Văn học, 1995). Hơn một thế kỷ sau, việc định dạng này vẫn tỏ ra hợp lý, không chỉ trong bối cảnh của nền văn học Pháp. Soi chiếu vào thực tiễn văn học Việt Nam, có thể nhận thấy rằng trong đội ngũ phê bình thơ hiện nay hình thành ba lực lượng: 1 – Các nhà thơ tham gia phê bình thơ, 2 – Các nhà phê bình chuyên nghiệp, 3 – Công chúng yêu thơ. Dĩ nhiên là hai thành phần đầu chiếm vị trí chủ lực và tiếng nói của họ có sức nặng hơn trên văn đàn. Phê bình của các nhà sáng tác có ưu thế về mặt trực giác, vốn cùng trong tâm thế của người sáng tạo nên họ thường tỏ ra nhạy cảm, am hiểu về những chuyện bếp núc của nghề nghiệp. Phê bình của các nhà thơ nặng về cảm tính, tuỳ hứng, và không loại trừ việc hợp “gu” nhau thì dễ bốc đồng… Phê bình chuyên nghiệp, là loại phê bình mà văn học nói chung và thơ ca nói riêng luôn cần đến. Nó bộc lộ khả năng khám phá các giá trị nghệ thuật thông qua năng lực vận dụng các tri thức khoa học, kết hợp với sự cảm nhận tinh tế và năng lực nhạy bén trong việc phát hiện cái mới. Phê bình văn học bình đẳng với tất cả mọi người, nhưng dù sao việc nâng cao tính chuyên nghiệp là một hướng đi cần được khuyến khích và coi trọng để phê bình thực sự trở thành chính nó. Theo dõi tình hình phê bình thơ thời gian qua có thể nhận thấy những dấu hiệu khả quan ở lực lượng phê bình chuyên nghiệp. Cách viết của họ khoa học, bài bản, vận dụng một cách hiệu quả những lý thuyết mới như thi pháp học, ký hiệu học, kết hợp những khoa học liên ngành như ngôn ngữ học, xã hội học, văn bản học v.v… Nâng cao tính chuyên nghiệp đang là một đòi hỏi không ngừng được đặt ra.
Vấn đề cuối cùng mà bài viết muốn đề cập tới, đó là sự cần thiết phải có những người phê bình cùng thời. Phê bình khác với nghiên cứu. Nhà phê bình sống cùng văn học thời mình, đi theo một hệ thống mỹ học luôn có sự vận động và biến đổi. Hoài Thanh cũng đã từng có dự định làm một tuyển thi nhân Việt Nam giai đoạn sau 1945. Nhưng ông đã không thực hiện được ý tưởng này. Có thể vì nhiều lý do, nhưng chắc rằng do hoàn cảnh đã khác trước, thời của ông đã qua! Không nhất thiết là chỉ những người phê bình cùng thời mới thực hiện được công việc của mình. Nhưng rõ ràng là họ dễ tiếp cận, dễ “giải mã” được những người sáng tác trẻ cùng thế hệ. Sự xuất hiện một đội ngũ các nhà phê bình trẻ trong bầu không khí dân chủ của sự nghiệp đổi mới, chắc sẽ đem lại sự khởi sắc cho đời sống văn học nước nhà.
Nguồn: Vannghequandoi