Nhà ông trong một ngõ phố yên tĩnh, chủ nhà có phong thái nhẹ nhàng với lối nói nhỏ nhẹ và ấm áp. Ít ai ngờ ông đã gần 80 tuổi, khi nhìn vào sự nhanh nhẹn trong những động thái của ông, cũng như những lập luận, kiến giải của ông. Nhìn nhận, đánh giá một nhà nghiên cứu phải nhìn vào tác phẩm. Và số sách mà Giáo sư (GS) Hà Minh Đức – Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2012 – liên tục cho ra đời là minh chứng hùng hồn về sức lao động cần mẫn, dường như không biết mệt mỏi của ông. Không bao giờ viết bằng vi tính, ông chỉ viết tay, cũng không vì để câu chữ mạnh mẽ hơn, có hồn hơn như nhiều người khác nói, GS Hà Minh Đức bảo: là do quen tay thôi.
Ông có tới gần 50 công trình sách cá nhân đã xuất bản, với các cuốn tiêu biểu như: Nam Cao, nhà văn hiện thực xuất sắc (NXB Văn học, 1961), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại (NXB Khoa học xã hội, tái bản 4 lần, xuất bản lần đầu 1974), Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà thơ lớn của dân tộc (NXB Khoa học xã hội, tái bản 6 lần, lần đầu xuất bản năm 1979), C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lê Nin và một số vấn đề lý luận văn nghệ” (NXB Sự thật, xuất bản 1982, tái bản 3 lần), Đi tìm chân lý nghệ thuật (NXB Văn học 1988), Báo chí Hồ Chí Minh (NXB Chính trị quốc gia, 2000 tái bản 2 lần). Tố Hữu, Cách mạng và thơ (NXB Đại học 2004, 2008, NXB Văn học 2008), Tự lực văn đoàn – Trào lưu và tác giả (NXB Giáo dục, 2007), Một nền văn hóa văn nghệ đậm đà bản sắc dân tộc với nhiều loại hình nghệ thuật phong phú (NXB Khoa học xã hội, 2005-2007), C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lê Nin với báo chí” (NXB Chính trị quốc gia 2010), Một thế kỷ thơ Việt Nam 1900-2000 (NXB Khoa học xã hội, 2012), Nhận thức và đối thoại văn hóa văn nghệ (NXB Hội Nhà văn, 2012) và 5 tập bút ký, 6 tập thơ. Trong thời gian từ 2007-2012 ông cho xuất bản một cụm bảy tác phẩm dưới dạng nghiên cứu, chuyện trò với các nhà thơ tiêu biểu: Xuân Diệu – Vây giữa tình yêu (NXB Giáo dục 2009), Văn chương và thời cuộc (NXB Khoa học xã hội 2009), Huy Cận, ngọn lửa thiêng không tắt (NXB Giáo dục 2010), Tố Hữu cách mạng và thơ (NXB Văn học, 2009), Chế Lan Viên, người trồng hoa trên đá (NXB Văn học 2010), Nguyễn Đình Thi – Chim phượng bay từ núi (NXB Đại học, 2011), Tế Hanh – mãi mãi hoa niên (NXB Văn học 2011), Nữ sĩ Anh Thơ – mùa hoa đồng nội (NXB Văn học, 2012). Trong các công trình nghiên cứu của ông có 12 công trình được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (6 cuốn), hai Giải thưởng Nhà nước (6 cuốn), giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1 cuốn), giải thưởng sách hay 2009 (1 cuốn).
Nguồn: TCNV