Nam Cao được đánh giá cao với tư cách là một nhà văn hiện thực. Cùng với những tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, các tác phẩm của Nam Cao đã góp phần quan trọng làm nên khuynh hướng văn học hiện thực phê phán (1930-1945).
Theo từ điển Tiếng Việt, chửi là thốt ra những lời xúc phạm cay độc để làm nhục [1].
Phạm Văn Tình thì cho rằng: “Khi đạt đến đỉnh điểm của sự tức tối, người ta thường thốt ra một lời rủa, lời chửi (mà đi kèm với nó là những từ thô tục)” [2].
Một ý kiến khác của Nguyễn Thị Tuyết Ngân: “Chửi là một hiện tượng ngôn từ văn hóa phản chuẩn bày tỏ một cách chủ động phản ứng bất bình nhằm làm giảm căng thẳng tinh thần của người chửi và hạ uy tín của người bị chửi” [3].
Thực tế, chửi có phải chỉ để trút bỏ bực tức hay không? Đặt hành vi ngôn ngữ chửi của Chí Phèo trong tác phẩm, chúng tôi cho rằng nó còn có thể có nhiều ý nghĩa hơn thế.
Khảo sát toàn bộ tác phẩm “Chí Phèo”, chúng tôi thấy không hề có một cuộc “chửi” hoặc “chửi nhau” trực tiếp nào. Tức là không có việc SP1 (nói) chửi SP2 (nghe) [4]. Đa phần chúng ta biết Chí Phèo chửi qua lời kể, lời dẫn truyện của tác giả. Lúc dọa nạt mụ hàng rượu, Chí cũng chỉ “quát lên” (Ít vốn thì tối nay ông trả. Nhà mày đã chết ngay bây giờ hay sao?). Khi đến nhà Bá Kiến để gây sự, Chí vẫn rất “nhẹ nhàng” (Vâng, bẩm cụ không được thì con phải đâm chết dăm ba thằng, rồi cụ bắt con giải huyện). Ngay cả lúc đến nhà Đội Tảo đòi nợ thay cho Bá Kiến, chúng ta cũng chỉ biết Chí “cất tiếng chửi ngay từ đầu ngõ”. Không biết cụ thể Chí chửi thế nào với một kẻ không nợ nần và cũng không thù oán gì với Chí!
Hành vi ngôn ngữ luôn gắn với người nói và người nghe. Người nói và người nghe luân phiên thay đổi vai nói và vai nghe. Ngay cả ở hành vi chửi cũng vậy. Chính Chí Phèo đã nói: “chửi nhau một mình thì còn văn vẻ gì! “. Có luân phiên thay đổi vai, thì việc ”chửi” có lẽ mới “hấp dẫn”. Trong truyện ngắn Chí Phèo, rất ít khi hành vi chửi của Chí được Nam Cao dẫn trực tiếp. Chửi mà không trực tiếp thì quả là giảm đi rất đáng kể tính gay gắt và sự xúc phạm thể diện đối với người bị chửi. Trong khi ở các tác phẩm khác, Nam Cao dẫn trực tiếp hành vi này rất nhiều và không phải là không “ghê gớm”. Ví dụ:
– Đồ phản trắc! Đồ bất lương! Đồ giết chồng!
(Nửa đêm; trang 449)
Hoặc:
– Bẩm bà, bu con đi vắng!
– Đi vắng! Đi vắng mãi! Mày về bảo con mẹ mày nội ngày mai không trả tiền tao thì tao đào mả lên đấy.
Cái giống chỉ biết ăn không!
(Nghèo; trang 10)
Vì vậy, chúng tôi cho rằng trong hành vi chửi của Chí còn chất chứa nhiều nỗi niềm hơn thế.
Thực ra, cho đến thời điểm ấy của cuộc đời với bao lần bầm dập cả về tâm hồn và thể xác, đến mức phải “đi ở tù”, đến mức cái mặt “nó không còn là mặt người” nữa. Và để sinh tồn thì chỉ còn mỗi một nghề là “rạch mặt ăn vạ”. Để có thể rạch mặt ăn vạ, “chửi bới”, “dọa nạt” thì phải có rượu, phải say! Hơn nữa, “chưa bao giờ hắn tỉnh…”, thì hành vi chửi bới kia có phải chỉ là phản ứng “khi đạt đến đỉnh điểm của sự tức tối” hay không?
Thứ nhất, chửi quả đúng là để “bày tỏ một cách chủ động phản ứng bất bình”. Trong toàn bộ truyện ngắn Nam Cao, hành vi ngôn ngữ chửi mắng được dẫn với một tỉ lệ tương đối cao (91 lần [5]). Và cũng rất nhiều lần Nam Cao để các nhân vật của mình “thốt ra lời rủa, lời chửi” và “đi kèm với nó là những từ thô tục”. Ví dụ:
– Quân ăn cướp! Quân giết người! Mày muốn rũ tù thì trêu vào bà!
(Nửa đêm; trang 449)
Hoặc:
– Nói chó nó cũng không ngửi được!…
(Làm tổ; trang 326)
Nhưng với Chí Phèo, đỉnh điểm của bực tức mà chửi có lẽ chỉ diễn ra một vài lần, sau khi Chí “đi ở tù về”… Nam Cao đã viết: “năm hai mươi tuổi hắn đến ở cho nhà Lí Kiến…”. Rồi được một thời gian “Chí bị người ta cho đi ở tù”; “hắn đi biền biệt đến bảy tám năm sau mới về”; “về hôm trước hôm sau đã ngồi uống rượu thịt chó say khướt” rồi “xách vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục ra mà chửi”. Đó là lần đầu tiên Chí Phèo chửi. “Thật là ầm ĩ!”. Chí Phèo đã chửi ra trò. Và chắc là phải kèm theo “cả những lời thô tục”. Vì Nam Cao đã viết rất rõ: “Mà chửi mới sướng miệng làm sao! Mới ngoa ngoắt làm sao!”. Chửi đến mức mà dân làng “Họ bảo nhau: Phen này cha con thằng Bá Kiến còn dám vác mặt đi đâu nữa! Mả tổ mả tiên lộn lên hết mất rồi!”, thì chắc hẳn phải là “những lời xúc phạm cay độc” lắm!
Một hành vi ngôn ngữ không chỉ gắn với người nói, người nghe, mà còn gắn chặt chẽ với ngữ cảnh. Trong ngữ cảnh rộng lớn của xã hội Việt Nam những năm dài trước Cách mạng, thì phản ứng để trút bỏ bực tức của con người trước những áp bức bất công là một điều không tránh khỏi. Đi sâu vào ngữ cảnh của tác phẩm Chí Phèo thì rõ ràng là không thể im lặng, mà phải phản kháng, phản kháng mãnh liệt trước sự bất công, vô lý đến tàn nhẫn khi Chí Phèo bị đẩy vào đường cùng và chỉ còn mỗi một cách rạch mặt ăn vạ, đâm chém để tồn tại. Cho nên, chửi có lẽ là một phản ứng tất yếu. Vì thế, khi Chí Phèo chửi, thì cả làng Vũ Đại – họ mới “hả” vô cùng… Rõ ràng hành vi chửi đã góp phần không nhỏ vào việc tạo dựng chân dung nhân vật cũng như sự chuyển tải trong chiều sâu tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả!
Thứ hai, chửi còn là cách để Chí chứng tỏ sự tồn tại của mình, sự hiện diện của mình trong cộng đồng cư dân làng Vũ Đại.
Sau lần chửi “thật là ầm ĩ” và “ồn ào như chợ” ấy, Chí Phèo đã trở thành “tay chân” của Bá Kiến. “Hồi ấy mới đâu hắn mới hai bảy hai tám tuổi”…
“Bây giờ hắn đã thành người không tuổi rồi…”. “Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại người ta giao cho hắn làm”. “Hắn nhớ mang máng rằng có lần hắn hai mươi tuổi, rồi hắn đi ở tù, rồi hình như hắn hai nhăm không biết có đúng không?”. “Bởi vì từ đấy bao giờ hắn cũng say”. “Hắn không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. “Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua…”. “Vì thế cho nên hắn chửi hay là chẳng vì cái gì hắn cũng chửi”. Có lẽ Chí Phèo đã quá cô đơn trong sự quẫy đạp của chính mình để tồn tại. Chí uống rượu đấy, đập phá đấy và chửi bới đấy, nhưng dường như Chí đang đơn độc một mình. Và chỉ có thể chửi, bởi vì Chí không biết hát (“giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không cần chửi”). Hát hay chửi đối với Chí thì cũng đều vậy thôi – đều là tiếng kêu đau đớn của sự đơn độc! Do vậy, ở đây chửi không phải là sự tức tối – chửi để chứng tỏ sự tồn tại, sự hiện diện của Chí trong cuộc đời này, với làng Vũ Đại đã sinh ra Chí!
Thứ ba, Chí Phèo chửi không chỉ để khẳng định sự tồn tại, mà còn để khẳng định vị thế xã hội của hắn. Trong văn hóa của người Việt, thì chỉ những người ở vị thế xã hội cao (chức vụ cao, tuổi tác cao, ông bà, bố mẹ…) mới có “quyền” chửi. Và những người bị chửi thường là những người có vị thế xã hội thấp (nhân viên, con cháu…). Chửi là một cách để thể hiện mình, khẳng định mình. Ông cha ta có câu “Muốn nói không làm chồng mà nói, muốn nói ngoa làm cha mà nói”. Theo cách hiểu của người Việt, thì “nói không” và “nói ngoa” cho ai đó cũng là cách hạ thấp uy tín, danh dự của họ (tức là chửi họ). Và thậm chí không đáng để chửi, thì những người có quyền hơn vẫn có thể chửi. Cho nên, việc chửi của Chí Phèo (“hắn thấy hắn cũng oai, táo bạo vì dám gây sự với cha con nhà Bá Kiến bốn đời làm tổng lí…”; và vì hắn “đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc…”, đến nỗi “tất cả dân làng đều sợ hắn…”) phải chăng là một cách để xác lập vị thế “hơn người” của hắn?
Cuối cùng, trong văn hóa ứng xử của người Việt thì kị nhất là chửi và bị chửi. Bởi vì, “một điều nhịn, chín điều lành”, “nhịn mày tốt tao”. Cho nên, chửi nhất là bị chửi là một sự xúc phạm ghê gớm. Do đó, chửi và chửi nhau là một điều mà người Việt tối kị. Chửi mà không có người ra lời hồi đáp thì sẽ không thành chửi nhau. “Bởi người ta không thể chửi nhau một mình”! Trong tác phẩm Chí Phèo, sự hiện diện của Chí luôn gắn với hành vi chửi, nhưng rõ ràng Chí chưa chửi nhau “trực tiếp” bao giờ – tức không hề có chửi nhau. Có nghĩa là không hề có hành vi được xem là mất danh dự này. Do đó, khái niệm chửi mà lâu nay chúng ta vẫn thường quan niệm, cũng như quan niệm về Chí Phèo với hành vi chửi của Chí một cách thông thường có lẽ nên xem lại.
Như vậy, hành vi chửi của Chí Phèo không chỉ là sự trút bỏ bực tức với những lời cay độc, không chỉ là phản ứng không chuẩn văn hóa, mà chửi còn là để khẳng định sự tồn tại, sự hiện diện và vị thế của mình. Đó có lẽ cũng là cách mà Chí Phèo muốn “làm hòa với mọi người”. Và trong suốt tác phẩm (mặc dù vậy), Chí cũng chưa từng chửi nhau. Nhìn sâu vào tác phẩm và tâm hồn của Chí, rõ ràng đây không phải là tiếng chửi, mà là tiếng lòng thống thiết từ trái tim bị chà đạp đến tận cùng và nó bật lên thành tiếng kêu thương đau đớn với hình thức biểu đạt một cách xót xa (mà chỉ có Nam Cao mới làm được) đó là tiếng chửi. Vì vậy, mặc dù chửi, chúng ta vẫn thấy thương, vẫn thấy đau đáu, vẫn thấy day dứt trăn trở khôn nguôi… dù những trang viết của Nam Cao đã cách xa chúng ta gần thế kỉ.
MAI THỊ HẢO YẾN
Nguồn: tạp chí nhà văn
……………………
1 Hoàng Phê (chủ biên), 2003, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
2 Tập thể tác giả, 2001, Những vấn đề lý thuyết lịch sử văn học và ngôn ngữ, NXB Giáo dục.
3 Nguyễn Thị Tuyết Ngân, 1993, Đặc trưng ngôn ngữ – văn hóa trong lối chửi của người Việt, Ngôn ngữ, số 1.
4 Đỗ Hữu Châu, 2005, Đỗ Hữu Châu tuyển tập, Tập 2, NXB Giáo dục.
5 Mai Thị Hảo Yến, 2001, Hội thoại trong truyện ngắn Nam Cao, Luận án Tiến sĩ.