Tháng 7 năm 2001, tôi cùng nhà thơ Nguyễn Duy tham gia trại hè của Trung tâm William Joiner của đại học Massachusetts, Boston, Hoa Kì. Ngoài những buổi đọc thơ ở Santa Fe và Boston, tôi có cuộc gặp với một nhóm độc giả Mĩ. Trong cuộc gặp, khi nhắc đến văn học Việt Nam, tôi nói nhiều về tác phẩm của Nguyễn Minh Châu và khẳng định: theo tôi, Nguyễn Minh Châu là khuôn mặt đẹp nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Một vài người muốn tôi nhắc lại tên ông. Vài người khác nhờ tôi ghi tên ông trên bảng, dĩ nhiên là những chữ không có dấu: NGUYEN MINH CHAU. Tôi hi vọng họ sẽ có dịp được đọc ông, đọc những truyện ngắn đặc sắc của ông và bản tuyên ngôn văn chương tuyệt vời Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa.

Cái thời Văn nghệ Quân đội còn Vũ Cao, Từ Bích Hoàng, Xuân Sách, Nguyễn Trọng Oánh, Nhị Ca, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu…, ngôi nhà số 4 này được Xuân Quỳnh gọi là Hội Nhà văn của những người viết trẻ. Chúng tôi thường qua đó gửi bài và rất thân thiết với các anh chị lớp trước, nhưng tôi chưa khi nào được “chạm mặt” Nguyễn Minh Châu. Hình như ông ít xuất hiện ở những nơi đông người, mà có tới, chắc cũng ngồi ở một căn phòng đóng kín cửa nào đó trong số 4 Lý Nam Đế hay một góc khuất nào đó trong những lần họp hành của giới văn nghệ. Trong Ngồi buồn viết mà chơi vào những ngày bệnh nặng, Nguyễn Minh Châu đã kể về mình: “Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và vô cùng nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt cho đến ma quỷ. Sau này lớn lên, đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và bình tâm như con dế đã chui tọt vào tổ”. Nhưng có lẽ, sự “biến mất” của ông không chỉ do tính rụt rè bẩm sinh. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn – người từng nhiều năm sống gần và “mê mẩn” Nguyễn Minh Châu – nhận thấy: “…Ở ông có một khả năng mà nhiều người chúng tôi không có: sống đơn độc”.


Mãi khoảng sau những năm tám mươi đầy biến động tôi mới có vài lần gặp hiếm hoi và quý giá với nhà văn mà mình yêu mến, quý trọng.
Đó là một buổi sáng, khi Xuân Quỳnh, Lê Minh Khuê và tôi đang tụ tập tại phòng làm việc của tôi (tổ Thơ, Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới), tán chuyện, cười nói rôm rả thì Nguyễn Minh Châu bước vào. Như lệ thường, ông mặc bộ quần áo màu cỏ úa của bộ đội, tay cầm một chiếc túi vải cũ cùng màu. Ông hỏi: Các cô có chuyện gì mà vui thế, còn tôi thì có nhiều cái sợ quá. Xuân Quỳnh hỏi ngay: Anh sợ gì? Ông cười mà giọng thì buồn buồn: Sợ đủ thứ, sợ ma quỷ, sợ đám phê bình, sợ tuyên huấn… Chúng tôi biết ông đang buồn bực vì trong một cuộc hội thảo ở tuần báo Văn nghệ, một số người xúm vào phê phán các truyện ngắn mới xuất bản của ông, nào là phi hiện thực, nào là phi xã hội chủ nghĩa. Ông đang cần một sự chia sẻ. Lê Minh Khuê và tôi im lặng, chỉ có Xuân Quỳnh kịp ứng xử với tình cảnh. Quỳnh gọi những người phê phán ông với đủ thứ biệt danh, khiến ông phì cười, nét mặt chợt nhẹ nhõm…


Dịp thứ hai là chuyến đi cùng Ban Nhà văn trẻ lên Hội Văn nghệ Thái Nguyên, vào năm 1984. Trong lúc chúng tôi giao lưu, trao đổi công việc với các anh chị ở Hội Văn nghệ thì ông được các thầy cô trường Đại học Sư phạm Việt Bắc mời nói chuyện với sinh viên. Khi gặp lại chúng tôi, ông hào hứng khoe, trong đám thính giả có một cô áo đỏ rất xinh đẹp. Chúng tôi tò mò, tìm cách xem mặt cô gái bằng được. Cả bọn hơi bất ngờ vì đó là một nhan sắc rất bình thường. Tôi đùa: Chắc “bác Châu nhà mình” bị lóa mắt vì màu đỏ. Lại nhớ, Xuân Quỳnh kể chuyện đi Liên Xô cùng Nguyễn Minh Châu và một nữ văn sĩ khác. Một hôm, cả đoàn được mời đến tham quan viện bảo tàng. Nữ sĩ lên cơn đau tim, đòi ở nhà. Nàng bắt đoàn trưởng Nguyễn Minh Châu ở nhà để theo dõi bệnh tình. Xuân Quỳnh đi một mình, lúc quay về thấy nữ sĩ nằm đắp chăn trên giường, còn Nguyễn Minh Châu ngồi trên chiếc ghế kê bên cạnh, tay bó gối, mắt nhìn chăm chăm vào mặt người bệnh. Tôi ngờ rằng Xuân Quỳnh có thêm bớt chút ít nhưng những chi tiết đều phù hợp với tính cách Nguyễn Minh Châu, với cách cư xử có phần vụng về, nhất là đối với phụ nữ của ông. Vậy mà lạ thay, các nhân vật nữ của ông lại đẹp vô cùng. Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) chẳng hạn. Đọc truyện rồi, tôi háo hức chờ đợi bộ phim Người đàn bà mộng du của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân, để có thể thấy Quỳ bằng xương bằng thịt. Tôi hơi bị hẫng, dù diễn viên chính là một người nổi tiếng tài sắc và chị rất được khen ngợi khi thủ vai Quỳ. Có lẽ, một phần do độ chênh tất yếu giữa văn học và điện ảnh, phần khác, do cách hình dung của tôi về vẻ đẹp khác thường của người đàn bà suốt đời trên chuyến tàu đi tìm cái đẹp tuyệt đối của Nguyễn Minh Châu.


Dịp thứ ba là vào khoảng giữa 1987. Tôi không nhớ ai đã tổ chức chuyến lên công trường thủy điện sông Đà, chỉ nhớ trong đoàn có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Lê Lựu, Trần Chinh Vũ, tôi và con trai thứ hai của tôi. Thủy điện sông Đà lúc ấy là một công trình lớn thu hút sự chú ý của toàn xã hội, trong đó có giới văn nghệ (một số nhà thơ trẻ như Dương Kiều Minh, Giáng Vân, Nguyễn Lương Ngọc… còn “nằm vùng” tại đây trong một thời gian dài). Ban lãnh đạo công trường đã quá quen với các chuyến “đi thực tế” của nhà văn, cử nhân viên đưa các nhà văn vào nhà khách, bố trí cho các nhà văn gặp một số kĩ sư, công nhân tiêu biểu và ra công trường nhìn ngắm công nhân làm việc. Nguyễn Minh Châu tham gia tất cả các sự vụ, ngoại trừ việc ra công trường. Khi chúng tôi háo hức đi thì ông dứt khoát ở nhà cùng cậu con trai nhỏ của tôi. Ông bảo: “Ở nhà để hưởng điều hòa nhiệt độ”. Tôi nghĩ đó chỉ là một cách nói cho vui. Có thể ông không mấy thích thú với những chuyến đi thực tế có phần thô thiển. Mà cũng có thể, ông có cách riêng của mình. Nghe đâu, lúc vào chiến trường, Nguyễn Minh Châu thường mắc võng ở nhà ăn, trùm kín mặt, nằm nghe lính kháo chuyện nhà, chuyện chiến trận – những câu chuyện vô tư, không sắp đặt, bày tỏ hết những cảnh ngộ họ từng trải qua, những nỗi lo âu, nhớ nhung, chờ đợi của họ. Ông từng nói điều này trong tác phẩm của mình, qua nhân vật nhà báo trong Mùa trái cóc ở miền Nam: “Nhờ nghe hóng tôi biết được ối chuyện, tôi biết cả trong và sau trận đánh lịch sử cuối cùng ấy đã chứa đựng biết bao chuyện thật và chuyện giả dối đến mức đau lòng. Cái sự thật nghiệt ngã sẽ lắng đọng lại mãi mãi trong trí nhớ những thằng lính đang ngồi với tôi đây nhưng nay mai sẽ mỗi đứa đi một ngả, còn lịch sử viết thành văn bao giờ cũng trang trọng và sạch sẽ”. Và biết đâu, Nguyễn Minh Châu có cách nhìn nhận vai trò của tư liệu khác những nhà văn cùng thế hệ: đối với ông, tài liệu có thể chỉ là một phương tiện “quá cảnh”, dùng để chuyên chở tư tưởng, là cái trường hoạt động để tư tưởng có dịp triển khai mà thôi.


2. Trong tủ sách của tôi còn giữ nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu như Dấu chân người lính, Miền cháy, Mảnh đất tình yêu, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành… Đặc biệt, tập truyện ngắn Bến quê với chữ đề tặng của Nguyễn Minh Châu và tập truyện ngắn Cỏ lau, xuất bản sau khi Nguyễn Minh Châu mất, với lời đề tặng của bà Doanh vợ ông.
Những cuốn sách giấy đen, bìa vẽ sơ sài, chữ bị nhòe mờ, đứt gãy này ôm chứa trong chúng những truyện ngắn hay vào bậc nhất của văn xuôi Việt Nam đương đại.


Tôi thực sự “mê” Nguyễn Minh Châu khi đọc truyện ngắn Bức tranh. Mặc dù ông không đề thời gian viết ở cuối truyện, tôi nghĩ truyện phải được viết sau năm 1980, cùng thời kì với Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành – thời kì bắt đầu những thay đổi quan trọng của ông, thời kì chuẩn bị cho Chiếc thuyền ngoài xa, Khách ở quê ra, Cỏ lau, Phiên chợ Giát… những tác phẩm được nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Đăng Mạnh đánh giá đã thực sự “thoát ra thành tiếng nói nghệ thuật” (theo Vương Trí Nhàn).


Trong truyện ngắn Bức tranh, khi tác phẩm của người họa sĩ được giới nghệ thuật đánh giá cao và ông được vinh danh, họa sĩ đã quên mất lời hứa với người lính năm xưa đã giúp đỡ mình. Khi tình cờ gặp lại người lính ở tiệm cắt tóc, những ngày tháng của họa sĩ như bị đảo tung lên bởi đau đớn, tủi hổ. Ông không thể trốn khỏi cái tiệm cắt tóc nghèo nàn trên vỉa hè ấy, không thể trốn thoát những gì ông đã gây ra cho người lính, cho người mẹ của anh. Đây là lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, tôi tìm thấy một nhân vật muốn vẽ bức chân dung tự họa để “tự đối diện với mình”, để “nhìn kĩ cái mặt mình”. Câu chuyện kết thúc khi tác giả mời người đọc nhìn ngắm bức tự họa: “Một cái mặt người rất lớn chiếm gần trọn bức tranh. Những luồng ánh sáng hàng nghìn nến từ phía trước và trên đầu chiếu thẳng xuống một nửa cái đầu tóc tốt rợp như một khu rừng đen bí ẩn và một nửa mái tóc đã cắt thoạt trông như một phần bộ óc màu xám vừa bị mổ phanh ra. Khuôn mặt của người khách: một cặp mắt mở to nhìn trừng trừng vào luồng ánh sáng, một cái nhìn khắc khoải, bồn chồn, kinh ngạc và đầy nghiêm khắc… Đó là khuôn mặt của mình, khuôn mặt bên trong của chính mình”.


Bức chân dung này ám ảnh tôi đến nỗi, khi đọc Nguyễn Minh Châu, tôi cứ mải mê theo cái vệt của những khuôn mặt người, những dáng dấp người có phần khác thường (nhân vật chính trong Cỏ lau phải mất rất nhiều công sức và thời gian mới tìm thấy khuôn mặt mình trong vô số những khuôn mặt khác chập chờn, trôi nổi trong thau nước thuốc hiện hình; nhân vật Quang trong Cơn giông: “Nhìn bề nghiêng khuôn mặt hắn có một nét gì đó thật khó nắm bắt, quỵ lụy nhưng lại tàn ác, nhưng đầy quyến rũ”; nhân vật Toàn trong Mùa trái cóc ở miền Nam: “Khuôn mặt vuông vức lẫn trong khoảng bóng tối sau chiếc máy điện thoại… nửa người trên mềm oặt như thân rắn nhoai về phía trước, nửa người dưới từ thắt lưng trở xuống vẫn cứng và thẳng đơ như một chiếc com-pa”; nhân vật Phi trong Cỏ lau: “Một bên bầu má của người thanh niên cứ như đang hóp dần vào, cứ như một quả khô héo, khiến cho nửa khuôn mặt chĩa về phía tôi như đang bị một bàn tay làm dị dạng…”). Cố nhiên, cùng với những khuôn mặt này là những thân phận, những cảnh ngộ cũng “khác thường”.


Sớm nhận ra căn bệnh của văn học Việt Nam, Nguyễn Minh Châu đã viết về cái hiện thực “đang tồn tại”, cái “đang là” chứ không phải cái “phải là”. Đó là sự khác biệt với chính ông trước đó và với những tác giả khác cùng thời. Văn chương của Nguyễn Minh Châu lúc này tựa như một thứ thuốc hiện hình, làm bật lên cái thật, cái bản chất của con người.
Đó là những lựa chọn đầy ý thức của một nhà văn biết hoài nghi, luôn đi tìm những gì còn khuất lấp, những bí mật của con người. Nhà văn hơn một lần “cảm thấy lòng mình bị thương tổn nặng nề, và hình như cả con người tôi tự nhiên bị ngập chìm trong lo âu, một nỗi lo âu sao mà lớn lao và đầy khắc khoải về con người (Mùa trái cóc ở miền Nam).


Chính nỗi lo âu, khắc khoải đó đã tạo nên tác phẩm Phiên chợ Giát, thiên truyện cuối cùng của Nguyễn Minh Châu, lời từ biệt vừa cay đắng vừa huy hoàng của ông. Có thể nói, Phiên chợ Giát là kết quả của một chặng “đi tìm đường” để hiện đại hóa tư duy văn học của Nguyễn Minh Châu – một “quá trình làm việc tự nhiên song phải nói là rất vất vả của một người tự học” (Vương Trí Nhàn).


Tôi đọc Phiên chợ Giát nhiều lần, mà lần nào cũng có cảm giác ngỡ ngàng sao đó. Tôi luôn cảm thấy mình chưa thấu hiểu thiên truyện, chưa thấu hiểu nỗi khắc khoải, sự bất an, niềm lo âu của nhà văn trước thân phận người, trước cõi người. Tôi tìm đọc những phân tích, bình phẩm của người khác, trong đó có sự bình giá của giáo sư Đỗ Đức Hiểu – một chuyên gia văn học phương Tây, người từng nghiên cứu và giới thiệu với người đọc Việt Nam những thành tựu văn chương và các trường phái phê bình văn học hiện đại, về thiên truyện: “Phiên chợ Giát là một tâm trạng lớn, là những cảm xúc và những suy tư sâu thẳm, một văn bản đa thanh, một tác phẩm nghệ thuật mở…”, “… một bức tranh nhiều nét nhòe, nét này thâm nhập nét kia gây nhiều ảo ảnh, một sự thẩm thấu giữa hiện tại và quá khứ, giữa giấc mơ và sự thật, cái cụ thể và cái trừu tượng, độc thoại, đối thoại và lời người kể chuyện, giữa nhẫn nhục và tự do, những nét bút dữ dằn và thương yêu hòa quyện với nhau, xen lấn nhau, gây cảm giác dằn vặt, những cấu trúc đan chéo, chồng chất lên nhau biểu đạt những cuộc chia li nhọc nhằn, đau xót…” (Đỗ Đức Hiểu, Đổi mới đọc và bình văn, Nxb Hội Nhà văn, 1999). Đó là những nhận xét mới mẻ, thấu đáo và nhiệt thành. Nhưng dường như vẫn chưa đủ, dường như còn rất nhiều điều có thể nói, cần nói, phải nói về các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu
Sài Gòn, 9/2015
Theo Ý Nhi – VNQĐ
Exit mobile version