Bìa cuốn sách “Giọt nước trong lá sen” của Khuất Bình Nguyên
Cuộc trở về với văn chương của Khuất Bình Nguyên thật ngoạn mục. Sau ba mươi tám năm trằn trọc, lên bổng xuống trầm, buồn vui với nghề kiểm sát (lên chót vót tới chức Phó Viện trưởng Viện KSNDTC), đã thấy ông bạc đầu sớm hơn tuổi tác. Có lẽ cái nghề này nó thiệt thòi, dữ dội, và cả hiểm nguy khôn lường, nên có lúc tự bạch: “Trên đường đời xa xăm đã 40 năm, nhiều lúc trong cuộc mưu sinh, đứng giữa những thử thách to lớn về nhân cách làm người, cuộc tranh đấu khốc liệt giữa cái thiện và cái ác…Những lúc biết nhận phần thiệt thòi về mình để được làm người lương thiện”. Cảm thán chăng?! Nên dễ hiểu thơ là một sự điều hòa, cân bằng tâm thế và phóng chiếu cảm xúc như một cách thuần hóa nỗi đau, giải thoát tinh thần hữu hiệu nhất. Với người khác thì khi đã có cái danh đi kèm cái lợi như thế, dễ bằng lòng sống nốt phần đời còn lại trong dư dả và nhàn nhã. Nhưng như một định mệnh, cái duyên nợ văn chương đã đưa đường chỉ lối cho ông đến với Nàng Thơ vốn rất kiêu hãnh và khó tính. Ông cầm bút viết thơ như không thể nào khác. Viết như một đam mê không thể cưỡng lại được. Viết như lên đồng. Viết như là sự tuẫn tiết của kẻ tín đồ sùng Đạo Thơ. Tuổi sáu mươi mới lên hương thơ ca. Liên tục ra mắt các tập thơ:Người lữ hành thời gian (2009), Nơi thời gian trở về (2010), Cành tục ngữ hóa đá (2011), Bỏ quên trong rừng thu(2012), Hoa Hoàng Đàn nở muộn (2012). Ông chỉ tặng tôi một tập gần nhất nhưng tôi lại đọc hết thơ ông qua nhiều nguồn khác. Bốn năm in liền năm tập thơ, không kể hai tập in chung Bảy con đường của số phận (2010) và Mùa thu lứa đôi (2010), thì đó là một con số biết nói. Nó nói về một nội lực thơ. Nó nói về một “trầm tích” thơ. Khuất Bình Nguyên, tôi cứ hình dung, như một khối than nóng rẫy được che ủ bằng tro lạnh. Là người yêu thơ Chế Lan Viên, viết khóa luận về Thơ Chế Lan Viên trước và sau Cách mạng, luận văn tốt nghiệp Những tìm tòi nghệ thuật của thi ca Việt Nam hiện đại thời học đại học, có thể vì thế chăng mà nhà thơ lớn Việt Nam thế kỷ hai mươi họ Chế đã truyền cho Khuất Bình Nguyên cái thơm thảo của thơ ca, cái triết lý nhuần nhuyễn của chất suy tưởng (và may mắn cho độc giả là không phải gánh lấy những triết lý vặt), và một những kinh nghiện thanh lọc ngôn từ nghiêm cẩn, công phu. Thơ Khuất Bình nguyên hô ứng một dòng thơ trí tuệ nhưng không khô cứng mà luôn giữ được sự run bật của cảm xúc, đốt cháy cảm xúc nâng lên thành trí tuệ. Đó là thơ của những người thơ có cái căn cốt văn hóa. Trong cùng trang lứa tôi thấy thơ Khuất Bình Nguyên gần gũi với Hoàng Nhuận Cầm, Vũ Đình Văn (đã hi sinh), Đỗ Minh Tuấn, Lâm Huy Nhuận,…Những người thơ Văn khoa Tổng hợp và Sư phạm. Nhưng anh có cái vẻ bề thế, vững chãi hơn các bạn thơ vì cái vị thế xã hội và những khinh nghiệm sống mà không phải ai cũng có được. Nhưng lúc mới “tục huyền” với Nàng Thơ sau đằng đẵng mấy chục năm tạm gác bút, riêng tôi vẫn thấy cái run rẩy, rụt rè đôi lúc e lệ của Khuất Bình Nguyên, thậm chí như là khép nép để quan sát, học hỏi, tìm nẻo lối riêng vào thơ ca. Đó là một hành xử vừa chân thành cầu thị, nhưng không thể nói là không khôn ngoan. Nhưng tựu trung nếu nói một cách giản dị thì thi pháp thơ Khuất Bình Nguyên, riêng tôi nghĩ, là thi pháp chân thành. Đúng thế chăng?!
Có nét gì đó gần gũi giữa bậc thầy văn chương Chế Lan Viên và người học trò thơ nhỏ Khuất Bình Nguyên khi ông vừa viết thơ và vừa viết phê bình thơ. Tập chân dung văn học và đàm luận văn chương Giọt nước trong lá sen của Khuất Bình Nguyên, trong cảm nhận của riêng tôi, là sự hòa âm giữa tư duy hình tượng và tư duy phê bình thơ. Tập sách gồm 25 bài (có 16 bài về chân dung những cá thể thơ, theo tôi, là đặc sắc hơn). Không phải là nhiều tố chất như thế trong một người cầm bút. Vừa làm thơ vừa phê bình thơ, sau Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hoàng Trung Thông, như là những bậc tiên chỉ thì lớp hậu sinh không nhiều, có Vũ Quần Phương, Mã Giang Lân, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Trọng Tạo, Khuất Bình Nguyên, Đỗ Minh Tuấn. Nhưng đọc các vị này một cách kĩ lưỡng tôi thấy Khuất Bình Nguyên vẫn có cách mở lối của mình vào phê bình thơ. Đó là cách đi vào trung tâm thơ ca qua những giá trị tinh túy, kết tinh, được sàng lọc nghiêm khắc qua thời gian (nói như thi sỹ Xuân Diệu, thời gian “vặt lông” các giá trị). Hãy xem Khuất Bình Nguyên tiếp cận thơ của những thi sỹ nào trong nền thơ ca Việt hiện đại? Đó là Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Nguyễn Đình Thi, Văn Cao, Quang Dũng, Phùng Cung, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Việt Phương, Trần Vàng Sao, Ngô Thế Oanh, Nguyễn Hoa, Nguyễn Quang Thiều. Xem cái tỷ lệ 4/16 giữa các nhà thơ trước và sau năm 1945 sẽ thấy Khuất Bình Nguyên cố gắng sống với văn chương cùng thời trong địa hạt thơ ca. Cái hay, cái tinh tế của sự thẩm thơ bình thơ, và cao hơn là phác vẽ những chân dung thơ ca hiện đại nghiêng về đương đại ở Khuất Bình Nguyên là có cái lý và cả cái tình của nó. Không thấy anh thiên vị một ai dẫu cho đối tượng được viết có vị thế xã hội hay chỉ là người bình thường, đôi khi khúc khủy gập ghềnh, thậm chí oan khuất như Trần Vàng Sao. Ở đây là sự công tâm, công bằng trong khoa học. Cao hơn là tình yêu thơ ca đích thực. Ở đây là bản lĩnh của người viết. Ở đây là đức tin vào chân lý của nghệ thuật có thể cao hơn chân lý đời sống. Phát lộ ra cái sở trường và sở đoản của Khuất Bình Nguyên khi tiếp cận các hiện tượng thơ cá thể thường tinh tế và sâu sắc hơn khi bàn luận về một thế hệ, đội ngũ hay vấn đề chung của thơ ca như trường hợp Khúc tâm tình của một thời đạn lửa (trong bài này anh khảo về lớp nhà thơ chống Mỹ như Lê Anh Xuân, Nguyễn Trọng Định, Nguyễn Mỹ, Vũ Đình Văn – 4 nhà thơ liệt sỹ trong một đội hình trùng điệp từ Nguyễn Khoa Điềm, Dương Hương Ly, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Trọng Tạo, Anh Ngọc, Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ,…). Hãy nói theo cách của bạn. Cái slogan của tập đoàn viễn thông Viettel lại gợi mở trong tôi khi đọc và nhận ra cái sở trường của Khuất Bình Nguyên trong thẩm thơ, bình thơ.
Khuất Bình Nguyên quan tâm đến khía cạnh nào trong những chân dung thơ mà ông tạo dựng? Tôi nghĩ đây là vấn đề then chốt để xác nhận đóng góp của một cây bút phê bình thơ. Tôi thấy tác giả tri nhận và cảm thụ văn chương từ phương diện văn hóa. Văn hóa là một đại lộ. Vì nếu tách văn chương ra khỏi cái cuống rốn văn hóa thì đôi khi ta sẽ thấy văn chương cũng không có ý nghĩa gì thật sâu lắng, bền chặt và quan thiết đối với đời sống tinh thần của con người vì sự sống của nó sẽ ẻo lả, nhợt nhạt. Nhưng cái căn cốt, cội rễ của văn hóa Việt là ở đâu, từ đâu ra? Dĩ nhiên không phải là ngoại nhập dẫu bị ảnh hưởng cả hàng nghìn năm văn hóa Hán, cũng không nương nhờ ngọn gió từ trời Tây, dẫu cho cuối cùng thì dân tộc cũng phải hòa nhập, hội nhập trong xu thế toàn cầu hóa trong một thế giới phẳng. Đã có ý kiến đúng đắn cho rằng hiện đại hóa văn chương thời hiện đại chính là đi hết “cái dân tộc” để phát huy tinh hoa truyền thống. Cái vốn liếng của cha ông như là một “văn sản” mà chúng ta chưa khai thác hết. Bởi vì nếu nói đến tính hiện đại thì Nguyễn Du cách đây hơn hai trăm năm còn hiện đại hơn bất cứ nhà thơ nào thời nay. Hai ví dụ cho thấy Khuất Bình Nguyên quan tâm đến mối quan hệ giữa văn hóa và văn chương khi xét đến từng trường hợp cụ thể. Khi tiếp cận Nguyễn Bính, ông nhận ra: “Nguyễn Bính còn giữ lại cho chúng ta cái phông văn hóarộng rãi đầy bản sắc của làng quê Việt nửa đầu thế kỷ 20. Những cảnh những người bây giờ đã mai một huống hồ gì là cho đến ngày sau”. Cho đến thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21, dẫu chúng ta đang phấn đấu để đến năm 2020 đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp, thì về văn hóa vẫn cần khẳng định đó không phải là một nền văn hóa của “kỹ trị”, mà vẫn căn cốt từ nông thôn, nông nghiệp và nông dân. Có lẽ vì thế mà tác giả vẫn nâng niu ca dao như là “bánh chưng xanh” của thi ca Việt Nam, là thể thơ “đặc sản” Việt Nam. Nguyễn Bính là một thi sỹ đã có cái công lao không nhỏ khi “Góp mặt vào làng Thơ mới trước hết ở việc sử dụng thể thơ 6.8, bánh chưng của thơ truyền thống Việt Nam (…). Lục bát nhuần nhị kết hợp với lối nói dân gian giàu biểu tượng góp phần cho thơ Nguyễn Bính mang âm hưởng ca dao mặc dù nó chuyển tải nội dung trữ tình lãng mạn trong cảm xúc và ý tưởng thơ mà thời đại đã sản sinh ra (…). Cũng trên nền tảng văn hóa dân gian làng quê Việt Nam, Nguyễn Bính đã chuyển hóa thành công lối nói lặp chữ, điệp ngữ của dân ca tạo nên những cảm xúc thẩm mỹ đặc sắc riêng có của thơ ông”.
Khi tiếp cận Nguyễn Quang Thiều như một đại biểu của đổi mới thơ thời hậu chiến tác giả nhận ra phẩm tính văn hóa của một người được cái diễm phúc của số phận đặt vào giữa một thung thổ văn hóa rất mới mẻ so với thế hệ mình – văn hóa Mỹ La tinh với cái chất mê đắm của sự sống, cái cuồng nhiệt của cảm xúc, cái phá cách của kỹ thuật, cái tận hiến tận hưởng của cá thể giữa đồng loại, cái táo bạo bất ngờ của những phát kiến, nghĩa là: “Ông đã được tận hưởng nền văn hóa châu Mỹ La tinh đầy bản sắc hứng khởi. Nhất là nền văn hóa ấy lại được đốt lên bởi những xúc cảm cuồng nhiệt của một cuộc cách mạng với những lãnh tụ râu dài và đôi mắt đa tình đặc sắc”. Một đặc điểm trong ứng xử (được coi như là một phạm trù trong phạm trù vĩ mô văn hóa) của hế hệ Nguyễn Quang Thiều là với quá khứ thì ngưỡng vọng và chiêm bái, nhưng rất có thể không theo cái cách “người đi sau giẫm lên dấu chân người đi trước theo lối đi rừng” như cách Trần Đăng đã miêu tả tuyệt vời chính xác trong thiên bút ký nổi tiếng viết liền ngay sau Cách mạng tháng Tám 1945 Một lần tới thủ đô. Khuất Bình Nguyên, tôi nghĩ, chính xác và tinh tế khi viết: “ Cuộc sống đánh vào thơ muôn vàn lớp sóng và Thiều đã cùng thế hệ mình không ngần ngại ngã vào lớp sóng ấy. Dù chưa biết cái gì xẩy ra ở phía trước”. Phải chăng đó là văn hóa ứng xử của thế hệ được gọi là cách tân văn chương khi quyết liệt dấn thân, trải nghiệm với tính chất mạo hiểm của những nhà thám hiểm?!
Đọc Giọt nước trong lá sen của Khuất Bình Nguyên, riêng tôi, có được cái nhã thú như đọc một thiên sáng tác thơ trong những chân dung thơ. Có nhiều người nói, nếu với tấm bằng tiến sỹ luật học và cương vị xã hội như thế thì cuộc đời Khuất Bình Nguyên có thể rẽ sang một nẻo khác, sẽ thành danh ở chốn quan trường. Nhưng hình như duyên nợ văn chương đã là tiếng gọi của tiềm thức, đã kéo ông về với một cái “nghiệp” đầy những gian truân. Là đồng môn Văn khoa Tổng hợp với tác giả từ cuối những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi thấy ông đã kiên trì chí hướng, nuôi dưỡng khát vọng văn chương để đi tới cái đích được sống là mình và với những gì mình mong muốn.Giọt nước trong lá sen gợi cho tôi và văn giới nghĩ tới một phong cách phê bình thơ đặc sắc mang dấu ấn Khuất Bình Nguyên luôn tạo hứng thú thẩm mỹ và gợi mở đối thoại văn hóa.
Hà Nội, tháng Tư năm 2016
BÙI VIỆT THẮNG – Vanvn.net