Đã thành thông lệ, cứ mỗi dịp đầu xuân năm mới, người dân Việt lại dành nhiều thời gian cho việc trẩy hội, lễ chùa. Cùng với những vấn đề về an ninh, ùn tắc giao thông, đổi tiền lẻ, đốt vàng mã tràn lan lãng phí… thì nhiều vấn đề khác như lễ hội bị lợi dụng để một bộ phận trục lợi, lễ hội bị biến tướng cũng đang tồn tại gây không ít bức xúc trong dư luận, khó khăn cho cơ quan quản lý. Song dưới góc nhìn của một nhà nghiên cứu, GS.TS Ngô Đức Thịnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, nhấn mạnh, cần phải nhìn nhận lễ hội là thế mạnh chứ không phải là rào cản của sự phát triển!

GS.TS Ngô Đức Thịnh


Phóng viên: Suốt trong tháng Giêng cả miền Bắc ngập chìm trong lễ hội. Từ hội đình, hội làng đến hội tỉnh… Với hơn 800 lễ hội toàn quốc, tính trung bình thì một ngày có hơn 2 lễ hội được tổ chức. Vậy vì lý do gì mà ông lại cho rằng không cần phải cân nhắc về con số nhiều hay ít vì lễ hội chính là một thế mạnh?


GS.TS NGÔ ĐỨC THỊNH: So với các nước, Việt Nam đúng là có nhiều lễ hội. Nhiều người cho rằng lễ hội quá nhiều sẽ cản trở sự phát triển của xã hội, song dưới góc nhìn của một người nghiên cứu văn hóa tôi không cho là như vậy mà ngược lại. Lễ hội là cách thức trao truyền văn hóa. Chúng ta sinh ra trong gia đình được bố mẹ nuôi về mặt sinh học, dần dần tiếp thu văn hóa trong môi trường gia đình, rồi từ đó ra xã hội. “Mồng một tết nhà, mồng hai tết chợ, mồng ba tết đình” là như thế. Lễ hội dân gian chính là “con đê” ngăn chặn xu hướng văn hóa phương Tây hóa. Lễ hội là phương tiện bảo vệ văn hóa dân tộc, là phương thức góp phần phản kháng lại các xu hướng văn hóa ngoại lai. Vì thế, theo tôi tới thời điểm này chúng ta không nên băn khoăn nhiều hay ít lễ hội.


Đã từng có thời điểm vấn đề quy hoạch lễ hội được đặt ra với mong muốn sẽ giảm bớt số lượng. Song điều này khó khả thi bởi lẽ làng anh có lễ hội, làng tôi cũng có, vậy hà cớ gì mà anh bỏ lễ hội làng tôi còn giữ lại lễ hội của các làng khác… Lễ hội không chỉ là nơi vui chơi, quần tụ làng xóm, mà còn thể hiện khát khao của đời sống tâm linh. Chúng ta gìn giữ và khôi phục nhiều lễ hội chính là điểm mạnh, phù hợp với người dân.


Theo phân tích của các nhà khoa học thì lễ hội có nhiều ưu điểm, nhưng thực tế câu chuyện về chen lấn xô đẩy, mê tín, phản cảm… luôn là vấn đề nóng của mỗi dịp đầu năm mới?

Vấn nạn về lễ hội mà truyền thông thường đề cập đến do chính người tổ chức lễ hội làm dở chứ không phải do quá nhiều lễ hội hay do bản chất của lễ hội đó có vấn đề. Ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào, Thái Lan… đều có cúng lễ nhưng trật tự, trong khi ở Việt Nam thì nhiều người cúng lễ mà không hiểu mình làm gì. Nhiều người trong số đó không hiểu họ đang khấn vái ai và làm thế nào cho đúng mà chỉ có chung tâm lý là cứ thấy tượng là phải thắp hương, khấn vái.


Nguyên nhân chính là do sự thiếu hụt về hiểu biết lễ hội của cả người dân và cơ quan quản lý làm biến dạng lễ hội, đặc biệt là ở miền Bắc. Cùng đó, tính vụ lợi đã xâm nhập đời sống tín ngưỡng, cũng khiến việc thực hành các nghi lễ dân gian bị biến tướng. Đời sống tín ngưỡng khi đã “dính” tiền vào là bị phá hỏng. Nhiều nơi phục dựng lễ hội nhằm vụ lợi, “chặt chém” du khách, khấn thuê, bán ấn… Trước đây, các điểm tâm linh chỉ có đĩa hoặc một hòm công đức, mang ý nghĩa đựng tiền giọt dầu, nay quá nhiều hòm công đức. Đời sống tâm linh mà mang đời sống trần tục vào là mất hết ý nghĩa.

Một cảnh lễ hội đua thuyền Đầm Ô Loan


Theo ông, việc quy hoạch, phân cấp lễ hội có phải là giải pháp để đưa hoạt động này trở về nề nếp?


Bộ VH-TT-DL cũng đã từng đặt ra việc quy hoạch về lễ hội với việc phân cấp quản lý. Nhưng vấn đề là quy hoạch bỏ cái nào và giữ cái nào, khi mỗi lễ hội đều có nét văn hóa riêng của địa phương đó, không thể nói lễ hội lớn quan trọng hơn lễ hội làng. Chính việc phân cấp đã dẫn đến lễ hội đền Trần bị biến dạng hoàn toàn, khi vốn chỉ là lễ hội của một dòng họ, mang tính cung đình rồi dần “dân gian hóa”, nay đã bị “Nhà nước hóa”, thậm chí xuyên tạc vì lễ hội gốc không có việc “phát ấn, thưởng công”, nhất là việc in ấn mang tính trục lợi đã phá hoại lễ hội đền Trần. Trước đây, nhà Nguyễn ứng xử tốt với lễ hội đền Hùng khi 5 năm tổ chức quốc giỗ một lần; còn lại, chỉ gửi gạo cho người dân vùng đó nấu xôi thờ cúng. Nay lễ hội này đang bị “Nhà nước hóa” và chính là lý do khiến nghi lễ Hùng Vương mãi mới được UNESCO công nhận, bởi họ băn khoăn việc người dân có được tham gia thực hành lễ hội không? Hội Gióng cũng đã hỏng dần từ sau khi được UNESCO công nhận, dù lễ hội này đã gần gũi với dân gian hàng mấy trăm năm với nhiều điều thú vị. Nhà nước có vai trò quan trọng nhưng Nhà nước không nên làm chủ trong các lễ hội, mà chỉ nên giúp cho cộng đồng thực hiện vai trò làm chủ trong phát huy và phục hồi lễ hội.


Tín ngưỡng vốn lành mạnh, thiêng liêng, nhưng nay có nhiều vấn đề phản cảm. Song không nên dùng mệnh lệnh hành chính với tín ngưỡng tâm linh, mà phải bằng tuyên truyền. Bộ VH-TT-DL cũng không được ra lệnh cho làng nào đó không được tổ chức lễ hội của họ, ví như chém lợn ở làng Ném Thượng (Bắc Ninh), vì tính văn hóa của nó và quyền của người dân vì họ không làm trái luật. Bởi vậy, nên vận động, thuyết phục bà con thực hiện nghi lễ như thế nào, vừa đảm bảo tính truyền thống, vừa không gây phản ứng của dư luận. Hiện Nhà nước và các nhà khoa học – trong đó có chúng tôi, đang tự cho mình là có hiểu biết và bắt dân phải làm theo. Vấn đề cốt lõi là phải xác định chủ thể lễ hội là dân và tin vào nhân dân để trao trách nhiệm. Đó còn là tính nhân đạo và tính dân chủ. Khi Nhà nước giao quyền và người dân thực sự làm chủ các lễ hội thì những vấn nạn như thắp hương quá nhiều, sử dụng vàng mã… sẽ dần được khắc phục.


Xin cảm ơn ông!

 

Theo Mai An – SGGP

 

Đã thành thông lệ, cứ mỗi dịp đầu xuân năm mới, người dân Việt lại dành nhiều thời gian cho việc trẩy hội, lễ chùa. Cùng với những vấn đề về an ninh, ùn tắc giao thông, đổi tiền lẻ, đốt vàng mã tràn lan lãng phí… thì nhiều vấn đề khác như lễ hội bị lợi dụng để một bộ phận trục lợi, lễ hội bị biến tướng cũng đang tồn tại gây không ít bức xúc trong dư luận, khó khăn cho cơ quan quản lý. Song dưới góc nhìn của một nhà nghiên cứu, GS.TS Ngô Đức Thịnh (ảnh), Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, nhấn mạnh, cần phải nhìn nhận lễ hội là thế mạnh chứ không phải là rào cản của sự phát triển!

Phóng viên: Suốt trong tháng Giêng cả miền Bắc ngập chìm trong lễ hội. Từ hội đình, hội làng đến hội tỉnh… Với hơn 800 lễ hội toàn quốc, tính trung bình thì một ngày có hơn 2 lễ hội được tổ chức. Vậy vì lý do gì mà ông lại cho rằng không cần phải cân nhắc về con số nhiều hay ít vì lễ hội chính là một thế mạnh?

GS.TS NGÔ ĐỨC THỊNH: So với các nước, Việt Nam đúng là có nhiều lễ hội. Nhiều người cho rằng lễ hội quá nhiều sẽ cản trở sự phát triển của xã hội, song dưới góc nhìn của một người nghiên cứu văn hóa tôi không cho là như vậy mà ngược lại. Lễ hội là cách thức trao truyền văn hóa. Chúng ta sinh ra trong gia đình được bố mẹ nuôi về mặt sinh học, dần dần tiếp thu văn hóa trong môi trường gia đình, rồi từ đó ra xã hội. “Mồng một tết nhà, mồng hai tết chợ, mồng ba tết đình” là như thế. Lễ hội dân gian chính là “con đê” ngăn chặn xu hướng văn hóa phương Tây hóa. Lễ hội là phương tiện bảo vệ văn hóa dân tộc, là phương thức góp phần phản kháng lại các xu hướng văn hóa ngoại lai. Vì thế, theo tôi tới thời điểm này chúng ta không nên băn khoăn nhiều hay ít lễ hội.

Đã từng có thời điểm vấn đề quy hoạch lễ hội được đặt ra với mong muốn sẽ giảm bớt số lượng. Song điều này khó khả thi bởi lẽ làng anh có lễ hội, làng tôi cũng có, vậy hà cớ gì mà anh bỏ lễ hội làng tôi còn giữ lại lễ hội của các làng khác… Lễ hội không chỉ là nơi vui chơi, quần tụ làng xóm, mà còn thể hiện khát khao của đời sống tâm linh. Chúng ta gìn giữ và khôi phục nhiều lễ hội chính là điểm mạnh, phù hợp với người dân.

Theo phân tích của các nhà khoa học thì lễ hội có nhiều ưu điểm, nhưng thực tế câu chuyện về chen lấn xô đẩy, mê tín, phản cảm… luôn là vấn đề nóng của mỗi dịp đầu năm mới?

Vấn nạn về lễ hội mà truyền thông thường đề cập đến do chính người tổ chức lễ hội làm dở chứ không phải do quá nhiều lễ hội hay do bản chất của lễ hội đó có vấn đề. Ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào, Thái Lan… đều có cúng lễ nhưng trật tự, trong khi ở Việt Nam thì nhiều người cúng lễ mà không hiểu mình làm gì. Nhiều người trong số đó không hiểu họ đang khấn vái ai và làm thế nào cho đúng mà chỉ có chung tâm lý là cứ thấy tượng là phải thắp hương, khấn vái.

Nguyên nhân chính là do sự thiếu hụt về hiểu biết lễ hội của cả người dân và cơ quan quản lý làm biến dạng lễ hội, đặc biệt là ở miền Bắc. Cùng đó, tính vụ lợi đã xâm nhập đời sống tín ngưỡng, cũng khiến việc thực hành các nghi lễ dân gian bị biến tướng. Đời sống tín ngưỡng khi đã “dính” tiền vào là bị phá hỏng. Nhiều nơi phục dựng lễ hội nhằm vụ lợi, “chặt chém” du khách, khấn thuê, bán ấn… Trước đây, các điểm tâm linh chỉ có đĩa hoặc một hòm công đức, mang ý nghĩa đựng tiền giọt dầu, nay quá nhiều hòm công đức. Đời sống tâm linh mà mang đời sống trần tục vào là mất hết ý nghĩa.

Một cảnh lễ hội đua thuyền Đầm Ô Loan

Theo ông, việc quy hoạch, phân cấp lễ hội có phải là giải pháp để đưa hoạt động này trở về nề nếp?

Bộ VH-TT-DL cũng đã từng đặt ra việc quy hoạch về lễ hội với việc phân cấp quản lý. Nhưng vấn đề là quy hoạch bỏ cái nào và giữ cái nào, khi mỗi lễ hội đều có nét văn hóa riêng của địa phương đó, không thể nói lễ hội lớn quan trọng hơn lễ hội làng. Chính việc phân cấp đã dẫn đến lễ hội đền Trần bị biến dạng hoàn toàn, khi vốn chỉ là lễ hội của một dòng họ, mang tính cung đình rồi dần “dân gian hóa”, nay đã bị “Nhà nước hóa”, thậm chí xuyên tạc vì lễ hội gốc không có việc “phát ấn, thưởng công”, nhất là việc in ấn mang tính trục lợi đã phá hoại lễ hội đền Trần. Trước đây, nhà Nguyễn ứng xử tốt với lễ hội đền Hùng khi 5 năm tổ chức quốc giỗ một lần; còn lại, chỉ gửi gạo cho người dân vùng đó nấu xôi thờ cúng. Nay lễ hội này đang bị “Nhà nước hóa” và chính là lý do khiến nghi lễ Hùng Vương mãi mới được UNESCO công nhận, bởi họ băn khoăn việc người dân có được tham gia thực hành lễ hội không? Hội Gióng cũng đã hỏng dần từ sau khi được UNESCO công nhận, dù lễ hội này đã gần gũi với dân gian hàng mấy trăm năm với nhiều điều thú vị. Nhà nước có vai trò quan trọng nhưng Nhà nước không nên làm chủ trong các lễ hội, mà chỉ nên giúp cho cộng đồng thực hiện vai trò làm chủ trong phát huy và phục hồi lễ hội.

Tín ngưỡng vốn lành mạnh, thiêng liêng, nhưng nay có nhiều vấn đề phản cảm. Song không nên dùng mệnh lệnh hành chính với tín ngưỡng tâm linh, mà phải bằng tuyên truyền. Bộ VH-TT-DL cũng không được ra lệnh cho làng nào đó không được tổ chức lễ hội của họ, ví như chém lợn ở làng Ném Thượng (Bắc Ninh), vì tính văn hóa của nó và quyền của người dân vì họ không làm trái luật. Bởi vậy, nên vận động, thuyết phục bà con thực hiện nghi lễ như thế nào, vừa đảm bảo tính truyền thống, vừa không gây phản ứng của dư luận. Hiện Nhà nước và các nhà khoa học – trong đó có chúng tôi, đang tự cho mình là có hiểu biết và bắt dân phải làm theo. Vấn đề cốt lõi là phải xác định chủ thể lễ hội là dân và tin vào nhân dân để trao trách nhiệm. Đó còn là tính nhân đạo và tính dân chủ. Khi Nhà nước giao quyền và người dân thực sự làm chủ các lễ hội thì những vấn nạn như thắp hương quá nhiều, sử dụng vàng mã… sẽ dần được khắc phục.

Xin cảm ơn ông!

– See more at: http://www.sggp.org.vn/vanhoavannghe/2016/2/411544/#sthash.KubRBJDg.dpuf