Nhớ mười năm ngày mất

(20/7/2002-20/7/2012)

Nguyễn Đình Phúc

Vào ngày giáp cái giỗ lần thứ mười của nhà thơ Lãng Thanh, tôi tha thẩn về Hiền Quan, quê anh theo câu thơ anh viết. Đứng ở ngã tư Đồng Vương bồi hồi trải mắt xuôi cánh đồng nâu dáng cò như vươn mỏ xuống đầm Chuôm, con mắt làng. Hút hắt bên kia sông thơ mộng thị xã Phú Thọ. Dải đồi rừng Cấm bên trái sắn nghiêng nắng xanh. Dải đồi Mỏ Khoái bên phải, nơi tím mùa sim mua dĩ vãng, là vương quốc chơi đùa của bọn trẻ chăn trâu cắt cỏ chúng tôi thời bé. Theo như các cụ kể lại Đình Vương, rừng Cấm là nơi vua Hùng chọn ngày lành tháng tốt đi săn, tế lễ trời đất mỗi khi về đây. Mộ phần gia tiên Lãng Thanh nằm mấp mé chân đồi rừng Cấm, trơ đá sỏi, bơ vơ giữa chen chúc những sắn là sắn khúc khỉu, thuần khiết trung du. Lãng Thanh không sinh ở quê, anh sinh ra và sống cùng bố mẹ nơi công tác thành phố Việt Trì. Hồi bé, chỉ khi dịp giỗ tết hay kỳ nghỉ hè, cậu mới được bố mẹ cho về quê tảo mộ, thăm ông bà, họ hàng. Nhớ bàn chân cậu cuống quýt, run rẩy, lặng đứng. Đôi mắt mờ dưới đôi tròng kính. Cảnh tượng đấy một mai bừng thức vụt hiện câu thơ: “Cánh cò trắng muốt cắt đôi bầu trời/ Bầu trời bên trái che xuống mộ ông bà/ Bầu trời bên phải vẫy gọi cha mẹ trở về ruộng đất quê tôi”. Nó chớp lóe như dẫn dụ ta vào không gian “Hoa” gieo nở từ những tiếng kêu thương tiền kiếp nguồn cội sâu thẳm. “Cắt đôi bầu trời” chính là mở ra cánh cửa nối liền Âm- Dương, nối liền Thiên- Địa- Nhân thành một thể.

Lãng Thanh ơi! giờ anh ở đâu. Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam trân trọng lồng kính treo kia, ngót mười năm mờ hương khói. Tấm lịch ố vàng dừng lại ngày 20 tháng 7. Mười năm mẹ vẫn để ngỏ hai lon bia Hà Nội như ngày nào đợi anh về. Tủ sách vẫn bày y nguyên sách là sách, sinh thời anh yêu thích. Vài cây sáo trúc nghiêng nghiêng. Những tập thơ “Hoa và những trang viết để lại” tái bản lần thứ ba xếp ngay ngắn, đồng nghĩa ơn sâu sự gom góp, cố gắng của nhóm Chí Tâm vì tình bạn và quý mến tài năng suốt năm tháng ấy. Trên tường còn đó 26 bức tranh thư pháp đếm cùng tuổi anh .

Tôi cầm lên tập thơ, mở ra đọc để tái hiện và chiêm nghiêm vẻ huyền bí. Từ khi tập thơ “Hoa” đoạt giải thưởng B (không có giải A) của Hội Nhà văn, đã có hàng chục lời bình và giới thiệu của những nhà văn, nhà phê bình có uy tín cả nước như Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Đức Mậu, Trịnh Thanh Sơn, Thiên Sơn, Thanh Thảo, Trúc Thông, Kim Dũng, Nguyễn Tham Thiện Kế, Nguyễn Hưng Hải, Trịnh Tố Loan… trở thành hiện tượng thơ Lãng Thanh suốt mười năm qua. Còn văng vẳng bên tai tôi lời nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn VN trong buổi thuyết trình về thơ, mở cho lớp lý luận phê bình của Trung tâm BDVV Nguyễn Du khóa 2 khẳng định: “Thành công về thơ mới, thơ trẻ tiêu biểu nhất thập niên đầu thế kỷ hai mốt vẫn là Lãng Thanh”. Bất chợt trang mở đầu tiên là 111 với bài thơ “Hoa lụa”: Ngôn từ trong trẻo về tình yêu học trò cựa quậy, mở mắt na: Đẹp quá, “Hoa lụa” thức trong tôi một liên tưởng, đây có thể là chìa khóa nhắc nhớ để tên tập thơ “Hoa” sau này xuất hiện và Lãng Thanh bảo, cả đời cháu chỉ xuất bản một tập thơ “Hoa” và cũng để trả lời cho nhiều bạn đọc hỏi tôi bấy lâu nay:

Có một thời hoa lụa/ Đẹp như ngôi sao chiều/ Là bông hoa huyền diệu/ Anh gọi em: người yêu.

Hẳn đó là mộng yêu ảo giác đầu đời, ẩn một nguyên cớ sót lại, ý thức không bị đốt đi cùng hơn trăm bài thơ khác viết ở tuổi học trò mà Lãng Thanh cho là thời mơ mộng thử nghiệm. “Hoa” của Lãng Thanh là hoa tâm tưởng, thẩm thấu qua mao mạch sinh tử đất trời, khuất nở trong vần vũ hồn người, những cánh hoa “Vọt như máu ngưng như lệ”, trong hỗn mang của ước lệ giá sương.

Lãng Thanh thuộc típ người thâm trầm lặng lẽ: Như lớp nham thạch quý ẩn sâu sinh khí: “Những thứ gọi là sông bởi chưa từng chảy”. Lặng lẽ đường quê “Nhón qua những con mương đục như bát đất”, của tâm trạng đâu đó bất an hờn dỗi như bị bứt khỏi quê. Lặng lẽ làm thơ không thích khoe với ai từ bé. Lặng lẽ lời la mắng của bố mẹ khi năm đầu không thi đỗ đại học, để rồi âm thầm tự khẳng định mình cho năm sau thi đỗ hai trường đại học lớn: Ngoại giao và Ngoại thương. Lặng lẽ tự học thành thạo tiếng Anh, Pháp, Trung và chữ Hán, Nôm. Có thể nói khá lưu loát cả tiếng Đức nữa. Cách học ngoại ngữ cũng rất kỳ lạ, mở trực tiếp đài phát thanh truyền hình nói tiếng nước ngoài, yêu thích chương trình thời sự, chính trị, xã hội và văn học, vừa nghe vừa viết, vừa đọc nhái, vừa ghi âm, vừa đối chứng, tra từ điển, gạch xóa chi chít và chỉ khoảng hơn một năm anh có thể nghe viết và đối thoại một cách khá dễ dàng mấy loại ngôn ngữ ấy. Tôi tìm cách lý giải cho hiện tượng này, Lãng Thanh cười bảo: “Trời cho đấy cậu ạ”. Tôi bảo: Trời cho hay trời đày không biết, chỉ thấy cháu học ngoại ngữ như vỡ hoang, như đánh trận ấy. Và cuối cùng lặng lẽ “Đi về một ngôi mộ cũ, cô đơn/ Không có tình yêu, không danh vọng”, yên hằng nơi đất mẹ , buông một cánh hoa lạ vào không gian thơ trong niềm mưa mỹ cảm.

Tôi triền miên theo dòng suy tư trầm mặc của Lãng Thanh. Mới ngoài hai mươi tuổi, học và viết như cướp lấy thời gian, trong vô thức của thoát vượt định mệnh.Từng dây thần kinh run run trên khuôn mặt gầy, từng mạch máu hồi cơ bần bật. Anh bảo, chưa bao giờ cháu có thể đi ngủ trước hai giờ sáng. Vừa phải hoàn thành chương trình khóa học suốt năm năm của hai trường đại học. Gánh nặng của học hành, sự dày vò sáng tác dàn mỏng, trong niềm chống đỡ căng như dây đàn của áp lực tinh thần, nên cơ thể tiều tụy mảnh mai.

Nhớ một chiều đến thăm Lãng Thanh ở một nhà trọ Trung Kính, quận Cầu Giấy hồi còn đaị học. Đang chuyện trò tán gẫu, bỗng thấy anh nhoài người nhìn qua cửa sổ tầng hai ngó xuống bên kia đường, tiếng chân con mèo hoang đang cào bới lá chuối khô bên gốc cây trứng cá, trong tiếng ồn ào xe cộ. Lãng Thanh liền với ngay ngòi bút, ghi vài dòng vẹo siêu: “Nàng ló đầu sột soạt sau đống lá chuối khô / Như bánh gai ngon bóc dở…” (sau này bài thơ có tiêu đề : “ Con mèo đen 2”).Tôi bảo, cậu chả thấy gì cả. Lãng Thanh mỉm cười, kéo dài hơn một chút âm điệu: Chỉ sinh viên nghèo mới nghe được bước chân mèo tìm ăn vì đói thôi cậu ạ. Nó gói một lý lẽ, nghe mủi lòng đến tận bây giờ mà rất tinh tế.

Ở những tư liệu còn sót lại cho thấy, Lãng Thanh làm thơ như vật vã, như đối chất với hồn mình, nhiều chòm chữ bị xô lệch, đè xóa nhì nhằng. Một bài thơ được chọn ghép lại từ nhiều bài nháp khác là bình thường trong tạo dựng thơ anh, đến là phức điệu, mà hơi thở của thơ không thấy sự đứt gãy.

Tôi đã đọc không biết bao nhiêu lần thơ anh, bởi sự ám ảnh. Tứ thơ lạ trong liên tưởng ngữ nghĩa vô tiền khoáng hậu, lúc đẹp đến cổ kính, lúc dữ dội thượng phong, không hề lẫn lộn. Trong cái bàng bạc của triết lý, nhận ra thấm đẫm mảnh hồn văn hóa phương Đông: “Buổi sáng mai trở dậy/ Trái tim con mọc ở đằng đông”.

Ở thơ anh, hiển nhiên lan chùm lên nhiều câu từ đầy dự cảm, nhưng quan niệm về nghệ thuật vừa độc đáo vừa nghiêm túc : “Thời đại này là thời đại Thơ-Tư tưởng, nhưng Tư tưởng phải được nâng lên tầm cao của nó. Thơ đã đến lúc phải hoàn chỉnh như một học thuyết về cuộc sống- nghệ thuật. Sự đúc kết tinh hoa của trí tuệ phải được thể hiện một cách đa chiều kích, là sự ứng biến (cảm nhận) với mọi hiện tượng xã hội tự nhiên”. Nói về hình thành một học thuyết có thể còn bàn cãi dài, nhưng dường như Thơ- Tư tưởng gắn với cuộc sống, số phận con người, được các nhà thơ đề cập trên các trang báo, có sức thuyết phục cảm thụ văn chương trong công chúng yêu thơ.

Lãng Thanh, gieo trong tôi ấn tượng về hai người bạn gái, dù tôi chưa hề gặp, ở ký ức câu chữ, ở niềm tri kỷ và gửi gắm, mỗi người một vẻ. Một người tên là Ph. Bạn học cùng phổ thông, nết na và tri âm nhất mực, có thể trút hết mọi tâm tư thầm kín như chính anh thú nhận. Khi học đại học và ra trường công tác, những thất bại đau đớn bế tắc trở về bên cô như một phép giải tinh thần. Sau khi cô rủi ro tai nạn xe máy, họ càng thương nhau. Bài thơ “Năm cánh phượng buồn” viết tặng rụng rời xa xót:

Cánh buồn này ngả ngang chừng/ Như chìa tay vậy về đừng cô đơn

…Phượng ơi rụng cánh mấy lần /Rụng trong tim rụng mấy phần phượng ơi.

Người bạn gái thứ hai là LNH. Lãng Thanh thường gọi là LTH, chỉ lọai hương cỏ rừng. Là bạn ở đại học, trí tuệ, nghe đẹp vẻ kiêu sa, mến tài Lãng Thanh , nhưng cuối cùng cũng chẳng đi đến đâu. Anh dự cảm được điều đó nên rất đau đớn về tinh thần. Lãng Thanh viết nhiều thư bày tỏ tình cảm và trao đổi quan điểm về sáng tác thơ, thư pháp hòa trộn niềm yêu cũng như sự kết hợp hài hoà chí hướng. Tôi cảm thấy phần lớn anh viết là viết vậy cho mình, không gửi đi. LNH cho ta cảm giác, cô như vùng ảo quyến rũ ma lực để anh có cớ đắm chìm trong suy cảm sáng tạo và chiêm nghiệm, để trút tột cùng đau khổ bến bờ. Đoạn trích sau đây nói lên tâm trạng bế tắc, linh cảm sững sờ:

“Tôi đã thất bại nhục nhã, hai bàn tay trắng của tôi không được gì thêm ngoài những vết máu, một nỗi lo sợ lớn lao mà tôi không nỡ nói cùng em… Niềm hy vọng duy nhất là mong em thông cảm cho một thi sỹ tài năng bậc nhất này đang phải trải qua những cuộc đau đớn nhất của cuộc xáo động (hay là khủng hoảng) tư tưởng, sự hèn kém của tôi đã không thể làm gì để sắc đẹp của em được tôn vinh lúc này. Vậy mà chỉ còn vài tháng nữa thì tôi đã vĩnh viễn xa em và tôi tin rằng kỷ niệm về em vĩnh viễn trong hư ảo”. Đặt vào bối cảnh đoạn tuyệt thư: “tài năng bậc nhất” chính là “Đỉnh sóng Lãng Thanh” dào lên trong tiếng kêu gào bật máu, trong suốt của hồn nhiên mách bảo. Giờ mỗi lần đọc lại không khỏi thấy gai người.

Lãng Thanh tham vọng lớn ở nghệ thuật, đặc biệt thơ và thư pháp. Tham vọng cả về chính trị, kinh tế: Rằng, con người phải thành đạt về chính trị và kinh tế để không khỏi rơi vào vòng luẩn quẩn như nhiều thi sỹ tài danh tiền bối, cuối cùng sống cuộc sống nghèo khổ, bi ai và đơn độc. Có lần anh bảo mẹ: “ Thư pháp của con có thể bán khối tiền”. Để chứng minh điều ấy, khi bắt đầu ra trường đi làm, anh mua về một lúc ba bộ com lê, bảy chiếc áo sơ mi. Mọi người nhìn sửng sốt, cháu bảo: “Tiền bán thư pháp đầu tay đấy, mẹ ạ”. Nhưng đồng thời Lãng Thanh cũng nhận ra rằng, khao khát thì lớn nhưng sức lực trí tuệ con người lại có hạn, và rằng không đủ và không thể săn đuổi các mục tiêu cùng lúc hay cùng chiếm đoạt nó : “Tôi thấm thía rằng trí tuệ của mình thật nhỏ nhoi, tôi không thể khóc được về nỗi đau này, không thể đổi nước mắt lấy trí tuệ cũng như không thể đổi nước mắt lấy tình yêu, tôi chợt nhận ra rằng đang theo đuổi hư danh mà quên rằng mình đang kiếm tìm hạnh phúc”. Lãng Thanh lãng quên mình xác ve, đắm say trong lao động nghệ thuật. Với thơ, anh coi: “Thiên nhiên là người thầy vĩ đại của tôi”. Ở đó, “Sứ giả của thầy là chim hải âu/ Bay bằng hai lá cờ trắng muốt không quốc tịch”. Ở đó, thiên nhiên trong từng hơi thở, mạch nguồn cảm xúc khai mở vô biên và cả những đòn doi thấm thía. Với thư pháp, tư tưởng xuyên suốt trong sáng tác là “lộ nhu tàngcương”. Ở tranh anh, có nét như dải lụa bay, sự vút đi của kiếm, lúc lặng lờ, khi bay vút trong hư thực niềm thơ. Hãy nghe anh tâm sự với LNH: “Em yêu, tôi đã nói nghệ thuật thư pháp của tôi gặt hái được từ thơ, đồng thời tôi hướng tới xác lập một phong cách với tư cách một thư gia, theo vậy ý thơ là ngọn nguồn cho cảm hứng sáng tạo, mối liên hệ giữa hình thức (thư pháp) và nội dung (thơ) có khi tỏ ra mong manh nhưng mối liên hệ đó là tất yếu. Miền đất rộng cho thư gia khai thác đó là tính trữ tình. Thư pháp hướng tới một mỹ cảm rất lạ đối với thơ, vượt xa biên giới thơ”. Hồn thơ của anh qua đó trải rộng sang lĩnh vực thật mới nhưng cũng đầy thách thức. Câu thơ dưới đây tôi coi là một phong cách nghệ thuật trong thư pháp của anh, mở lối cho phơi triển một quan dạng mới về thư pháp:

Nét cuồng thảo vọt như máu, ngưng như lệ/ Sóng bút điên cuồng nương theo áng thơ…/Điên cuồng chữ bay,điên cuồng chữ bay, điên cuồng chữ bay…

Cũng phải nói thêm một chút đoạn ngoài đời công tác để hiểu hơn con người Lãng Thanh, để thấy dự định ở anh còn rất lớn. Sau ba tháng về công tác ở Ngân hàng Đầu tư Vĩnh Phúc, anh đã được cử đi thi nghiệp vụ giỏi của ngành và đoạt ngay giải ba như một cú hích đầu tiên. Năm 2002, chỉ cần bốn tháng đầu năm, Lãng Thanh đã hoàn thành kế hoạch Nhà nước cả năm bằng nhiệt thành phấn đấu, phương pháp làm việc độc đáo, ưu thế giỏi ngoại ngữ và khát vọng của lớp trí thức trẻ, mong muốn được thử sức và cống hiến cho Tổ quốc.

Tất cả giờ đây anh mang theo hun hút như vệt sao băng về trời, để lại giữa không gian và thời gian một sắc màu triết lý rất riêng: Một áng văn thơ, một nét thư pháp không chỉ là sáng tác mà còn chuyển hướng chủ đích sang tính sáng lập- Một trường phái, đều thể hiện năng lượng sáng tạo tràn đầy sự kiểm chứng. Những gì mà anh để lại, ở tuổi 26, đủ để mỗi người chúng ta cảm phục, nghiêng mình trong miền loang sương lắng.

Một ngày khi viết xong những dòng này, tôi sang nhà chị tôi, lên bàn thờ thắp một nén hương cho cháu. Ở tập thơ và những bài viết dường như đã dựng thấu chân dung một Lãng Thanh qua thi họa. Nhưng cảm giác vẫn thấy thiếu một điều gì đâu đó. Bần thần ngồi lục lọi lại những tư liệu cũ , bất chợt thấy hiện lên bốn ca khúc đã thất lạc phần nhạc bấy lâu, ca khúc run lên trong tay tôi như hồn gió…/.

Bài đã đăng Văn nghệ Trẻ, trên đây là bản đầy đủ

Nguồn: PHONGDIEP