Tào Tháo
Tào Tháo曹操 (155–220) tức Nguỵ Vũ Đế 魏武帝, tự là Mạnh Đức 孟德, tiểu danh A Man 阿瞞, Cát Lợi 吉利, người tộc Hán thuộc huyện Tiêu nước Bái cuối đời Đông Hán (nay là Hào Châu, tỉnh An Huy), làm quan tới chức Thừa tướng, tước Nguỵ vương. Ông được coi là một nhà chính trị, quân sự, văn học và là một thi nhân vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc. Về mặt chính trị và quân sự, ông đã tiêu diệt hầu hết các thế lực cát cứ, thống nhất đại bộ phận khu vực phương bắc Trung Quốc, hình thành nền móng của nhà Tào Nguỵ (220–265). Trên lĩnh vực văn học, ông cùng hai con trai Tào Phi 曹丕 và Tào Thực 曹植 (gọi chung là Tam Tào) được coi là những đại biểu của văn học Kiến An, lịch sử gọi là Kiến An phong cốt. Sau khi Tào Phi phế Hán và xưng đế, tôn xưng ông là Đại Nguỵ Vũ Hoàng Đế, miếu hiệu Nguỵ Vũ Đế.
(Bản dịch thơ của Cao Tự Thanh)
Phiên âm
Đối tửu đương ca,
Nhân sinh kỷ hà:
Thí như triêu lộ,
Khứ nhật khổ đa.
Khái đương dĩ khảng,
Ưu tư nan vong.
Hà dĩ giải ưu:
Duy hữu Đỗ Khang.
Thanh thanh tử khâm,
Du du ngã tâm.
Đãn vị quân cố,
Trầm ngâm chí kim.
U u lộc minh,
Thực dã chi bình.
Ngã hữu gia tân,
Cổ sắt xuy sinh.
Hạo hạo như nguyệt,
Hà thời khả chuyết ?
Ưu tòng trung lai,
Bất khả đoạn tuyệt.
Việt mạch độ thiên,
Uổng dụng tương tồn.
Khế khoát đàm yến,
Tâm niệm cựu ân.
Nguyệt minh tinh hy,
Ô thước nam phi,
Nhiễu thụ tam tạp,
Vô chi khả y.
Sơn bất yếm cao,
Thuỷ bất yếm thâm.
Chu Công thổ bộ,
Thiên hạ quy tâm.
Dịch thơ
Trước rượu nên ca,
Đời người bao lâu?
Giống như sương sớm,
Ngày qua khổ đau.
Nghĩ tới ngậm ngùi,
Buồn lo suốt đời.
Lấy gì làm quên,
Chỉ có rượu thôi.
Xanh xanh áo ai,
Lòng ta bồi hồi.
Chỉ vì ai đó,
Trầm ngâm đến nay.
Hươu kêu rao rao,
Cùng ăn quả bình,
Ta có khách quý,
Gãy đàn thổi sênh.
Vằng vặc như trăng,
Lúc nào lấy được.
Nỗi lo trong lòng,
Không sao dứt được.
Lội ruộng giẫm bờ,
Tiếc nỗi sống thừa.
Bạn bè hội họp,
Lòng nhớ ơn xưa.
Trăng sáng sao thưa,
Quạ bay về nam.
Quanh cây ba vòng,
Biết đậu cành nao.
Núi không ghét cao,
Biển không ghét sâu.
Chu công nhả cơm,
Thiên hạ về theo.
Nguồn: Thivien.net
Phạm Thúy Quỳnh đưa bài