Chuyên mục TRUYỆN HAY tuần này, Cầm Kỳ Official xin được giới thiệu truyện ngắn ĐÊM TRĂNG TẢ GIÀNG của nhà văn Đặng Văn Sinh
Nhà văn ĐẶNG VĂN SINH
Sinh năm 1948
Quê quán: An Bình, Nam Sách, Hải Dương.
Đại học Giao thông, ngành Cầu đường bộ và tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Từ năm 1968 đến năm 1980 ông làm việc ở ngành Giao thông, từ tháng 8 năm 1980 đến khi nghỉ hưu, ông giảng dạy trung học phổ thông.
Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
Các tác phẩm chính đã xuất bản:
Truyện ngắn:
-“Khúc Trương Chi” (Nxb Thanh Niên)
-“Đêm trăng Tả Giàng” (Nxb Hà Nội”
– “Ảo ảnh” (Nxb Hà Nội)
-“Kẻ chiếm dụng thời gian của Thượng đế” (Nxb Dân Trí)
Tiểu thuyết:
-“Ga tàu” (Nxb Hà Nội)
-“Bến Lở” (Nxb Hà Nội)
-“Thanh kiếm Phù Tang” (Nxb Lao Động)
-“Ký ức làng Cùa” (Nxb “Người Việt Books” California Hoa Kỳ, 2018
Phê bình văn học:
-“Khúc biến tấu Thị Mầu” (Nxb Hội Nhà văn, 2021)
Giải thưởng:
Giải A, Uỷ ban Toàn quốc các Hội VHNT Việt Nam năm 1993 cho tập truyện ngắn “Khúc Trương Chi”
ĐÊM TRĂNG TẢ GIÀNG
Truyện ngắn
Chuyện này tôi được ông già mù bản Nà Cưởm kể cho nghe hồi còn ở lâm trường khai thác gỗ Trùng Khánh cách đây gần bốn mươi năm. Tuy hỏng mắt nhưng ông già giã gạo rất giỏi. Khi giã, ông đổ thóc trên lưng cối, hai tay nắm chắc hai chày gỗ nhãn, rồi cứ đều đặn từng nhát một, cái nọ lên, cái kia xuống cho đến lúc hạt gạo trắng phau mà không bắn ra ngoài hạt nào. Lúc còn trai trẻ, ông là thợ săn có hạng của vùng Nà Gâm. Một lần ham đuổi con lợn đực đã trúng thương, do mất cảnh giác, ông bị nó hất xuống vực đập đầu vào đá, vỡ xương chỏm, mấy hôm sau thì không nhìn thấy gì nữa. Đêm ấy, ngồi quanh bếp lửa nhà sàn, uống rượu men lá nhắm với thịt nai khô nướng chấm muối ớt, chúng tôi nghe ông kể…
Ngày ấy, cách đây đã lâu lắm, không biết là rừng Khau Phầy đã bao nhiêu lần thay lá, ở Tả Khai có phường săn do trưởng bản Hoàng Tịch cầm đầu. Hoàng Tịch có họ với quan tri châu, giàu nhất vùng, nhiều vợ, nhiều trâu, ngựa và vô cùng say mê săn thú dữ. Một hôm, Hoàng Tịch dẫn phường săn vào Khe Đá vây ráp để tìm con báo vằn. Nghe dân bản đi làm nương về nói, từ nửa tháng nay, thỉnh thoảng thấy vết chân lạ dọc triền suối Hán. Bản Nậm Poóng mất ba con dê, còn đàn trâu của Nông Ích Định ở rừng Khoen bị nó vả chết con đầu đàn và một nghé tám tháng tuổi. Đến tối ngày thứ ba thì phường săn tìm được hang báo. Đó là một con báo cái, lông vằn hoa, dáng cao lớn, giữa trán có đốm trắng giống như ngôi sao năm cánh. Ngoài báo mẹ, trong hang còn một đôi báo con đang vờn nhau, thấy động, chúng chui vào ngách trong cùng. Hoàng Tịch sai đám thợ săn vần đá bịt hết các cửa, chỉ để cửa chính diện, sau đó lấy xà beng đào. Chừng nửa giờ thì cái ngách lũ báo con trốn được khai thông. Trưởng bản vừa lom khom bò vào thì bất ngờ bị bàn chân móng sắc như dao cạo cào cho một vệt rách cổ, máu chảy nhoe nhoét. Điên tiết, ông ta phóng ngọn giáo đâm chết cả hai con trước khi chúng kịp chạy sang chỗ mẹ. Bị dồn đến đường cùng, con báo vằn chống cự quyết liệt. Nó tát Lục A Sếnh vào thái dương, ngoạm một miếng làm vỡ xương quai xanh Hoàng Triệu Phì cháu họ Hoàng Tịch rồi liều chết, lấy đà phóng bừa vào giữa đám đông tua tủa giáo mác bằng một cú nhảy tuyệt đẹp. Dưới ánh lửa bập bùng của những ngọn đuốc làm từ nứa khô đập dập, đám thợ săn nhìn thấy mõm con báo cái tha lủng lẳng một vật gì rất lạ. Trưởng bản thích bộ da quý hạ lệnh cho phường săn không được làm nó bị thương mà phải bắt sống, nhờ thế con thú mới thoát hiểm. Chỉ có điều trong lúc phi thân tháo chạy, cái vật ở mõm nó bị Hoàng Phủng khua cán giáo chặn đường làm văng ra. Cánh thợ săn mang đuốc xúm lại soi, thì ra đó là một đứa trẻ trần truồng gần như vừa mới lọt lòng mẹ đang gào khóc thảm thiết bằng thứ giọng khàn khàn như tiếng mèo con sắp hoá dại. Phường săn bàn nhau mang đứa trẻ về nuôi nhưng trưởng bản không nghe. Ông ta bảo đó là cái ma rừng làm ra thế để báo hại dân bản. Không ai dám trái lệnh Hoàng Tịch vì ông ta là thủ lĩnh của mười tám bản vùng Tả Giàng, rất có thế lực, lắm mưu mô và cực kỳ tàn nhẫn. Tuy vậy, một thợ săn nhìn cảnh đó không đành lòng liền cởi chiếc áo đang mặc quấn cho thằng bé rồi mang đặt vào trong hang. Trước khi cả bọn về Tả Khai, trưởng bản cắt ba người ở lại canh chừng. Ông ta còn dặn:
– Nếu con báo quay lại, chúng mày cứ bắn, không tiếc bộ da nữa.
Nửa đêm về sáng, đứa trẻ khát sữa khóc như xé vải, nghe rất là thương tâm. Bế Văn Lịch chợt nghĩ đến bà chị họ ở bản Púa, cách Tả Khai gần nửa ngày đường, mới đẻ đứa con chưa đầy tháng liền bàn:
– Đứa trẻ này chắc bị mẹ bỏ rơi trong rừng rồi được con báo vằn tha về hang cho bú chứ chẳng phải ma quỷ gì đâu. Giờ không có cái ăn chắc nó chết mất. Hay là… hai anh cứ chờ ở đây, tôi mang nó vượt đỉnh Pú Nhì đi tắt sang bản Púa cho bà chị nuôi.
– Thế chị mày có sữa không?
– Nó cũng mới đẻ một thằng bé.
– Vậy thì được – Hoàng Phủng, người chăn ngựa của nhà trưởng bản, gọi Hoàng Tịch bằng chú nhưng xem ông ta như kẻ thù, gật đầu tán thành – Coi như chúng ta làm một việc thiện. Nếu là người, sau này mong nó thành chàng trai tốt, còn vạn nhất, nếu là… ma rừng nó cũng không nỡ báo oán.
Bế Văn Lịch lập tức vào hang mang đứa bé ra, nhưng trước khi đi còn băn khoăn:
– Sáng mai không thấy thằng bé, trưởng bản hỏi thì biết nói thế nào?
Hoàng Phủng liếc nhìn Nông Văn Cuổi một thoáng rồi bảo:
– Cứ bế nó chạy đi. Lão Hoàng Tịch thường ngày rất sợ ma rừng… Mọi việc ở đây cứ để chúng tao lo.
Bế Văn Lịch vừa đi vừa chạy, mệt đứt hơi, gần sáng thì đến được bản Púa. Chàng thợ săn chỉ nói nhặt được đứa trẻ bị bỏ rơi trong lúc lên nương, tuyệt nhiên không dám hé răng kể nó đã từng được một con báo vằn hoa cho bú. Người chị của Bế Văn Lịch là Bế Thị Nền, nhìn thấy thằng bé, thương lắm, liền ẵm lấy cho bú ngay. Mấy ngày sau, nó được bố mẹ nuôi đặt tên cho là Bế Hài Phạ.
Chưa đầy ba tuần trăng, Phạ đã lớn phổng lên. Người bản Púa có tục kiêng không đến thăm nhau khi nhà có phụ nữ mới sinh con, vì thế, ai cũng nghĩ, vợ chồng Bế Thị Nền được trời thương cho hai đứa con trai.
Ngày tháng qua đi. Năm Bế Hài Phạ lên bảy, một thầy mo tên là Tào Phìn lên núi Bàn Cờ tìm cỏ linh chi ngàn năm, qua bản Púa, nhìn thấy thằng bé liền đến nhà bảo vợ chồng Bế Thị Nền:
– Thằng bé này có tướng lạ, ta muốn dạy cho nó nghề thuốc.
Bà chủ nhà lắc đầu:
– Học nghề thuốc thì con tôi phải đi xa, không được đâu.
Ông thầy mo lẳng lặng ngồi xuống sàn, nhấc chiếc điếu cày bằng ống bương to đùng như cây cột nhà, nạp thuốc, rít một hơi thật dài, phả khói mù mịt khắp gian bếp rồi mới thong thả nói:
– Nhà ta ở Khuổi Bạc, cách đây bảy con dao quăng*, có môn thuốc bí truyền. Mấy năm nay, ta đi khắp các bản xa bản gần trong vùng Ngân Sơn mà chưa tìm được người vừa ý cho làm học trò nối nghiệp. Nhà này có hai thằng con trai, ta chỉ xin một, chừng dăm bảy năm thành nghiệp lại cho về, không mất đâu mà lo.
Bà Nền liếc nhìn hai đứa, ngập ngừng một lúc rồi ướm hỏi:
– Cho thằng anh đi được không?
Ông thầy lắc đầu:
– Thằng anh để ở nhà làm nương nuôi bố mẹ, ta chọn thằng em.
– Nhà thầy lấy gì làm tin?
– Ta có lá bùa thiêng truyền lại từ đời ông nội, xin tạm gửi lại…
Sáng hôm sau, Bế Hài Phạ vai khoác tay nải chàm, lưng đeo dao quắm theo thầy vượt ngọn Bàn Cờ sang Khuổi Bạc.
Thực ra, Tào Phìn là một thuật sĩ người Đại Lý nhưng tổ tiên đã lưu lạc sang xứ Cao Bình từ mấy đời trước. Ông ta thừa hưởng được ở người cha dòng máu thích xê dịch giang hồ, tính tình phóng khoáng, suốt đời chỉ say mê du sơn, nhạo thủy. Hành tung của Tào Phìn có vẻ bí hiểm như một kiếm khách. Vào tuổi ngũ tuần, dường như những năm tháng lang thang vô định nơi quê người đã làm ông ta mỏi gối chồn chân. Một ngày kia, nhà thuật sĩ dừng bước tại đất Khuổi Bạc, chọn dãy núi Tà Lênh dựng thảo am làm chỗ trú chân. Dãy Tà Lênh cao sừng sững, chắn ngang giữa vùng biên ải như con rồng cuộn khúc, đầu gối lên ngọn Thiên Phong quanh năm mây mù che phủ.
Từ lâu, vùng Đại Lý lưu hành trong dân gian một phương thuốc bí truyền, cỏ linh chi ngàn năm cùng với tuyết trên đỉnh Thiên Phong cao hai ngàn bảy trăm trượng có thể chữa được tứ chứng nan y và làm cho con người sống lâu trăm tuổi. Có điều, mấy chục năm chu du phương Nam, tiêu phí gần cả một kiếp người, Tào Phìn chưa bao giờ nhìn thấy thứ biệt dược từng được các danh y nói đến. Của hiếm khó tìm là chuyện đương nhiên. Danh y Biển Thước đã chẳng lấy chữ “nhẫn” làm phương châm hành đạo đó sao. Nhưng mà ông đã ở vào cái tuổi bên kia dốc cuộc đời. Thời khắc còn lại trên thế gian này chắc gì được nửa gang tay. Đã đến lúc phải truyền nghề cho thằng bé, để sau này, ông có về với tổ tiên, nó sẽ tiếp tục sự nghiệp dở dang. Bằng cái nhìn của một nhà tướng số, Tào Phìn biết Bế Hài Phạ không phải là một đứa trẻ bình thường, nhất là khi phát hiện ở gáy nó còn hằn rõ những vết lõm đã thành sẹo như vết răng thú dữ từng ngậm vào tha từ chỗ nọ đến chỗ kia. Sự nghi hoặc làm Tào Phìn không yên lòng. Vào một năm, khi Hài Phạ được hơn chục tuổi, ông lấy cớ đi hái thuốc, vượt mười ba ngọn núi đá sang bản Púa. Tào Phìn lấy trong bọc ra một đôi vòng bạc đưa cho vợ chồng Bế Thị Nền:
– Hôm trước, ta được thần rừng báo mộng, thằng Phạ không phải là con đẻ, nhưng nhà chị đã nuôi nó khôn lớn, thế là có công lớn lắm. Đây là số bạc ta đem đổi lấy cái bùa.
Bà mẹ nghe, sợ lắm, đành phải nói thật. Tào Phìn lại hỏi:
– Người mang thằng bé đến cho vợ chồng nhà chị là ai?
– Nó là em họ tôi ở bản Tả Khai nhưng đã bị trưởng bản bắt đi lính cho quan châu Hoà An.
Sáng hôm sau, người khách Đại Lý lại vượt núi tìm về đèo Tả Giàng…
*
Năm Bế Hài Phạ mười ba tuổi Tào Phìn bắt đầu dạy nó kiếm thuật. Thằng bé học môn gì cũng ham nhất là cung tên và trường kiếm. Mười lăm tuổi, Hài Phạ cao lớn như một tráng sĩ, tiếng nói sang sảng, bước đi như gấu làm rung chuyển đất dưới chân. Mỗi khi gánh củi ở rừng về, Hài Phạ lại xuống suối Nậm Khoang tắm. Cậu lặn ngụp, vùng vẫy dưới làn nước trong vắt thật thoả thích rồi mới trèo lên chạc cây dẻ, ngồi vắt vẻo thổi sáo. Một lần đang bơi dưới suối, Bế Hài Phạ nhác thấy trên sườn núi thấp thoáng mảng da loang lổ như chiếc chăn hoa chuyển động rất nhẹ nhàng giữa những bụi tầm ma. Một con báo vằn. Phạ thầm nghĩ và chợt thấy gai người. Con báo nhô đầu khỏi đám lá, nghếch cặp mắt tròn xanh như màu da trời nhìn cậu rất lâu, một lúc sau lặng lẽ bỏ đi.
Đã chớm vào thu. Vòm trời sâu thẳm và se lạnh. Những ngọn heo may xào xạc lướt trên tán rừng già. Vài chiếc lá mộc hương mỏng manh, đỏ thẫm, vừa bứt khỏi cành, bay chập chờn như những cánh bướm rồi từ từ rơi xuống suối Nậm Khoang. Dịp ấy thầy trò Tào Phìn đi săn gà rừng. Cùng đi với họ có chú bé Ma Thạch, người Nùng, mới được thu nhận làm tiểu đồng hơn một năm nay. Gần trưa, khi Bế Hài Phạ đã bắn được một xâu giẽ gà, vừa định xuống đường mòn quay về, chợt con báo vằn lại xuất hiện như là có thần giao cách cảm. Nó nằm phục dưới lùm cây dẻ gai gần tổ mối lớn ngay trên bờ nhánh suối cạn.Thoáng thấy con thú rình nhất cử nhất động của mình, Phạ lạnh sống lưng. Bằng phản xạ tự vệ quen thuộc, chàng trai mới lớn lắp mũi tên độc vào nỏ và từ từ kéo dây. Đây là con thú dữ đã lén lút theo cậu nhiều lần, ở vào tình thế mặt đối mặt lúc này, không hạ nó chắc chắn nó sẽ hại mình. Cánh nỏ vừa đủ độ căng, con báo vẫn y nguyên một tư thế, không hề có chút phản ứng. Bế Hài Phạ vừa định bật lẫy bỗng nhiên một giọng thì thầm nhưng dứt khoát từ đâu đó vang lên:
– Không được bắn!
Cậu giật mình quay lại, đưa mắt nhìn quanh. Không có ai cả. Cậu bé Ma Thạch thấp thoáng dưới gốc cây sòi mãi bên kia suối, còn rừng thì vẫn yên tĩnh như nó vốn có. Quái lạ. Tiếng của ai vừa nghiêm khắc mà lại vừa dịu êm như thế? Bế Hài Phạ buột miệng hỏi vào khoảng không giữa trời và đất:
– Vì sao không cho ta giết loài ác thú?
Tiếng nói vô thanh lại văng vẳng bên tai:
– Nó cũng như con, là một sinh linh do Đấng Trời tạo ra, nếu không thật cần thiết, chớ nên hạ sát…
Lại mấy năm nữa trôi qua. Một hôm Tào Phìn gọi Bế Hài Phạ lên thư phòng rồi bảo:
– Thời hạn giao kèo đã quá lâu rồi, võ nghệ cũng tạm tinh thông, ngày mai con phải về, ta sợ ở bản Púa có chuyện chẳng lành…
– Thưa thầy, còn cỏ linh chi ngàn năm tuổi?
Ông già lắc đầu hạ giọng:
– Mãi gần đây ta mới nhận ra, chuyện cỏ linh chi cải tử hoàn sinh chỉ là huyễn hoặc. Thật phí cho một kiếp người toàn đi tìm những chuyện viển vông, giờ thì đã mỏi gối chồn chân, ta muốn được nghỉ ngơi. Thôi, con đi đi!
Nghe vậy, Hài Phạ ứa nước mắt, giọng nghèn nghẹn:
– Thầy ở một mình, con không yên tâm, hay là… thầy về Nguyên Bình với con.
Tào Phìn lắc đầu bảo:
– Con đi rồi có lẽ ta với Ma Thạch cũng tìm về Đại Lý. Ở đấy tuy không có cỏ linh chi ngàn năm nhưng là quê hương. Ta muốn được nhìn thấy mảnh đất cha ông đã sinh ra mình trước khi nhắm mắt.
Đúng giờ Ngọ ba khắc, Bế Hài Phạ lạy thầy rồi khoác hành lý lên vai. Trước khi người học trò cất bước, vị đạo sư lại bảo:
– Còn một việc nữa, nghe thầy dặn đây. Mệnh vận con lớn nhưng nhân trung xem ra mờ tối, nên tránh so tài cao thấp với kẻ tiểu nhân. Vạn bất đắc dĩ phải đọ sức, con chớ nên nhường đối thủ dù chỉ một đường kiếm.
Tính ra, từ lúc rời bản Púa đến khi Hài Phạ quay trở về vừa chẵn mười một năm. Vợ chồng bà Nền và người con trai là Bế Phảng đã chết trong trận ôn dịch cuối tháng trước. Chàng trai đành sửa lại ngôi nhà cũ của cha mẹ nuôi, tạm thời vào rừng săn bắn kiếm sống.
Nhưng rồi tự nhiên Bế Hài Phạ nhớ rừng Tả Khai như là tiếng gọi của ký ức truyền kiếp. Một tháng vài lần chàng về Tả Khai chặt củi mang ra chợ Lũng Phàn. Từ bản Púa về Tả Khai đi nhanh cũng mất non nửa ngày đường, lại phải bán củi nên không thể sớm đi tối về. Nghĩ mấy ngày, cuối cùng, Hài Phạ quyết định phát một miếng rẫy nhỏ và dựng tạm chiếc lều ở luôn trong rừng cho tiện. Ban ngày, Phạ làm nương, săn bắn, lúc rảnh rỗi lấy cây sáo trúc ra thổi. Đêm đêm, tiếng sáo của chàng dìu dặt cất lên, vang vọng khắp núi, nghe buồn lắm.
Hôm ấy, vào lúc xế chiều, có một đoàn người ngựa từ chân dốc ngược lên. Bế Hài Phạ nhìn thấy trưởng bản Hoàng Tịch dẫn đầu toán trai bản chừng sáu bảy người. Đi sau cùng là một cô gái đầu đội mũ thổ cẩm tròn thêu hoa văn quả trám, lưng mang cung tên, cưỡi con ngựa bạch nhỏ. Bế Hài Phạ vừa định xuống suối lấy nước chợt thoáng thấy con báo vằn đang nằm ép mình dưới đám cỏ gianh, cặp mắt xanh sắc lẹm luôn dõi theo nhất cử nhất động của đám thợ săn. “Lại là nó” – Chàng nghĩ thế rồi vào lều xách cây mác búp đa lặng lẽ lên rẫy. Có vẻ như con báo đã để ý đến Bế Hài Phạ. Bằng chứng là nó khẽ ngoe nguẩy cái đuôi dài rồi luồn qua bụi cỏ gianh mà không hề gây ra tiếng động. Đúng vào lúc Hài Phạ vượt qua được tổ mối mọc lởm chởm toàn cỏ răng mèo thì phía trước có tiếng kêu thất thanh. Trưởng bản Hoàng Tịch bị con báo bất ngờ chồm ngang vồ vào đầu gối bóc đi một mảng thịt làm ông ta ngã ngựa, gẫy gần hết xương sườn bên phải. Con ngựa bạch phía sau sợ quá, chồm lên, bốc nước đại hất cô gái xuống sườn dốc nằm bất tỉnh. Con thú dữ, sau cú táp trưởng bản, tạm thời bỏ nạn nhân, đuổi theo cô gái. Chỉ với vài bước nhảy, nó đã ở sườn dốc. Tính mạng người con gái lúc này như ngàn cân treo sợi tóc. Chỉ cần một cái vả nhẹ của con mãnh thú là số phận người đẹp được định đoạt. Trong khoảnh khắc, Bế Hài Phạ tay nắm chắc ngọn mác, hai chân xuống tấn, mắt nhìn xoáy vào con báo. Hai bên canh chừng nhau một lúc khá lâu, bỗng nhiên con vật ngoe nguẩy đuôi, lùi dần rồi quay đầu lững thững vào rừng. Chàng trai bế cô gái xinh đẹp vào lều. Cũng may, cô ta không bị thương, chỉ xây xát qua loa. Và cũng đến lúc ấy Bế Hài Phạ mới biết, cô ta là Nàng Quện, con gái trưởng bản.
Mùa xuân năm sau, Bế Hài Phạ về Tả Khai chơi tết. Hội xuân năm ấy vui lắm. Con trai con gái từ khắp các bản đổ về chen vai thích cánh nhau dưới chợ Lũng Phàn. Mười tám bản của tổng Nam Lĩnh sắp tổ chức đấu võ, bắn cung nỏ và ném lao. Đây là tục lệ truyền thống của cả vùng từ nhiều đời nay. Sau hội thi, dân bản chọn được người tài còn các cô gái sẽ có cơ hội kiếm được tấm chồng xứng đáng.
Từ ngày được Bế Hài Phạ cứu, Nàng Quện đâm ra phải lòng chàng tiều phu. Thỉnh thoảng nàng lại hẹn Phạ ra đèo Tả Giàng thổi sáo cho nghe. Tiếng sáo của Hài Phạ lúc này không còn sầu thảm như xưa mà nó véo von như khúc xuân tình của lũ sơn ca. Ngày tháng thoi đưa, mùa xuân này đôi trai gái đã quyến luyến nhau như hình với bóng. Có bận Nàng Quện còn đánh liều vào rừng tìm người yêu. Trước tết, Bế Hài Phạ cả gan dám về Tả Khai đến nhà trưởng bản xin cưới con gái ông ta làm vợ. Thấy chàng không cha mẹ, không rõ nguồn gốc xuất thân lại chẳng có người mai mối, trưởng bản ghét lắm, bảo:
– Con Quện có ưng mày không?
Chàng tiều phu gãi tai, giọng lí nhí:
– Dạ thưa… có.
Trưởng bản hắng giọng:
– Từ giờ đến tết không tính. Ngày mười lăm tháng giêng, mày ra bãi cỏ dưới chân đèo Tả Giàng thi bắn tên và đánh kiếm với lũ trai bản. Đứa nào giành giải nhất, tao gả con gái cho. Dám không?
Bế Hài Phạ xem ra không vui nhưng vẫn miễn cưỡng gật đầu:
– Thế cũng được…
Ở trong buồng, nghe cha nói lạnh như nước suối Nậm Ngà ngày đông giá, Nàng Quện sợ lắm. Biết là chuyện tình duyên trắc trở, tối hôm ấy nàng cưỡi ngựa ra chân đèo tìm Phạ trách:
– Từ trước đến giờ chàng chỉ giỏi chặt củi với thổi sáo chứ biết gì nghề kiếm cung mà nhận lời dự hội võ. Chàng nhận lời là mất em đấy. Em bàn thế này, khi nào cha nguôi giận, chúng ta sẽ về quỳ xuống sàn gỗ ba ngày ba đêm, may ra ông ấy nghĩ lại.
– Không được! – Chàng Phạ lắc đầu bảo – Con trai bản Púa không nói hai lời. Hơn nữa, đây lại là cuộc tỷ thí để giành được chiếc vòng bạc của người con gái xinh đẹp nên mọi người đều phải bình đẳng.
Nàng Quện thở dài, mắt đã có ngấn nước, cố thuyết phục người tình:
– Đành rằng thế nhưng là với những người được tập luyện chút ít võ nghệ kia. Hãy nghe em. Đêm nay chúng mình về bản Púa rồi tạm lánh sang Trùng Khánh một thời gian.
Bế Hài Phạ vẫn một mực lắc đầu:
– Anh đã nói rồi, nếu có đi cũng phải sau ngày rằm tháng giêng.
Nàng Quện buồn, bỏ về nhà, suốt ngày ủ rũ như người ốm lửng.
Biết chuyện Bế Hài Phạ đến xin làm con rể, Hoàng Khún, vốn là người Nùng, được Hoàng Tịch nhận làm con trai, hơn Nàng Quện năm tuổi, tức lắm bảo với ông trưởng bản:
– Đáng lẽ phải tống cái thằng không cha không mẹ ấy ra khỏi nhà thì cha lại chấp nhận cho nó dự hội võ, con thật không hiểu.
Hoàng Tịch nghiêm giọng:
– Nó đã có ơn cứu con Quện nhà mình, ta không nỡ từ chối, vì thế mới ra điều kiện để dân bản khỏi chê mình hẹp bụng. Cha dám chắc nó chẳng biết võ vẽ gì đâu. Chỉ cần giao đấu với một tay thợ săn hạng bét thằng Phạ cũng bị loại khỏi cuộc chơi ngay từ ngày đầu tiên. Như thế có phải là một mũi tên trúng hai đích không?
Nghe Hoàng Tịch tính toán Hoàng Khún cũng thấy phải nhưng trong bụng vẫn còn hậm hực. Anh ta lẩm bẩm:
– Không may mà đấu với con, thằng Phạ sẽ nhận được mũi kiếm vào tim.
*
Hội thi bắt đầu vào giữa giờ Thìn. Bốn mươi tám chàng trai từ khắp nơi trong vùng lần lượt giao đấu theo thể thức vòng tròn. Trưởng bản Hoàng Tịch bị báo vồ gẫy chân, vết thương đã khỏi nhưng bị thọt, ngồi ghế chủ khảo. Qua rằm tháng giêng, các vị bô lão trong hội đồng trọng tài chọn ra được mười sáu đấu sĩ cho ngày hôm sau. Đến trưa mười sáu, số lượng các anh tài còn chín. Và buổi chiều, khi hồi chiêng báo hết giờ vang lên, thì những chàng trai trụ lại được cho ngày tiếp theo chỉ còn bốn. Ngồi trên đỉnh đèo, lòng Nàng Quện nóng như lửa đốt vì Bế Hài Phạ vẫn chưa vào cuộc. Nàng mong chàng đổi ý để tránh một trận thất bại thảm hại, thậm chí còn nguy hiểm đến tính mạng hoặc trở thành phế nhân suốt những tháng năm còn lại.
Cuối giờ Thân ngày mười bảy, những chàng trai võ nghệ cao cường của mười tám bản vùng Nam Lĩnh còn lại lần lượt bị một tráng sĩ mặc áo chàm tua đỏ cưỡi con ngựa ô cao lớn đánh bại. Người đó chính là Hoàng Khún, nghĩa tử của Hoàng Tịch, nổi tiếng nhiều năm giật giải quán quân hội võ Tả Giàng. Giữa lúc nhà vô địch lỏng tay cương cho ngựa phi nước kiệu lên lễ đài thì một dũng sĩ cưỡi con ngựa hồng bờm trắng phóng ra chặn ngang đường quát to:
– Khoan đã, hội võ chưa kết thúc.
Hoàng Khún đánh mắt nhìn thấy Bế Hài Phạ liền cười khẩy:
– Mày thích làm cái ma về với ông bà ông vải phải không?
– Ta muốn giao đấu với ngươi theo đúng luật lệ của hội võ – Bế Hài Phạ dõng dạc nói – Và tất nhiên là không thích chết.
Bị chọc tức, Hoàng Khún cáu lắm. Một anh chàng vô danh tiểu tốt, chuyên bán củi kiếm gạo, sống lang thang như con cầy con cáo trong rừng, thế mà bỗng chốc lại cầm vũ khí thượng đài, thở ra toàn giọng nhạo đời, thử hỏi hắn chịu làm sao được? Thế là, vượt lên trên mọi khinh miệt đẳng cấp do lòng tự ái bị tổn thương, con nuôi vị trưởng bản đáng kính chấp nhận cuộc thách đấu.
Đầu tiên là bắn cung. Hoàng Khún phi ngựa từ xa, vòng đi vòng lại hai ba lần rồi mới ghìm cương, giương cung bắn rất nhanh, mười phát trúng tám. Tưởng đã là vô địch thiên hạ nhưng Bế Hài Phạ lại có cách bắn lạ đời hơn. Chàng phi ngựa ngược chiều với đích, quá cự ly quy định chừng năm chục sải mới đột ngột quay lại bật dây cung mà mười phát đều trúng cả mười. Đến mục đấu kiếm, Hoàng Khún toàn sử dụng những thế bí truyền, độc chiêu của dòng họ Hoàng từ nhiều đời trước, nhằm áp đảo, hạ gục đối phương ngay từ những hiệp đầu tiên. Nhìn vào con mắt đầy sát khí của Hoàng Khún, Bế Hài Phạ quyết định dùng nhu đạo mà thầy Tào Phìn đã truyền cho để khắc chế mũi kiếm đang vùn vụt như con rắn lửa chỉ chờ mình sảy chân là hạ thủ. Chàng ba lần thay đổi thế công, sử dụng một thứ kiếm pháp mềm như lụa, tĩnh như nước giếng khơi, động như gió cuốn mây bay, lúc hư lúc thực, biến hoá khôn lường, làm cả ba lần kiếm của Hoàng Khún đều tuột tay văng xuống đất.
Chiều hôm ấy, Bế Hài Phạ phi ngựa mang phần thưởng đến nhà trưởng bản Hoàng Tịch, quỳ xuống nói:
– Thưa bố, hôm nay con đem lễ vật đến xin làm rể gia đình ta.
Hoàng Tịch không ngờ sự việc lại diễn ra như vậy, trong bụng không thích tí nào vì Hài Phạ nghèo rớt mồng tơi, chẳng có của nả gì ngoài con dao phát rừng với cây sáo trúc. Nhưng cũng không thể muối mặt nuốt lời ngay, nghĩ vậy, ông ta dùng kế hoãn binh:
– Đây là việc lớn có liên quan đến cả đời con Quện. Anh hãy tạm về, đợi ngày một ngày hai, ta bàn với mọi người trong bản đã.
Bế Hài Phạ nặng nề bước xuống cầu thang nhà sàn, ra đến cổng gặp Hoàng Khún từ ngoài rừng dắt ngựa vào. Thấy chàng, Hoàng Khún cười nhạt:
– Hãy về mang mười ba con trâu đực làm lễ vật, ta sẽ gả em gái cho.
Ba ngày sau, vào lúc nhập nhoạng tối, Hài Phạ phi ngựa từ trong rừng ra, đến đỉnh đèo Tả Giàng, thả cho ngựa ăn cỏ rồi ngồi xuống tảng đá lấy sáo ra thổi. Tiếng sáo ngân dài một điệu buồn ai oán loang khắp triền núi đá làm Nàng Quện không nén lòng được liền xuống chân cầu thang nhảy lên con ngựa trắng phóng đi. Chạy được chừng nửa dặm, con ngựa đột nhiên khựng lại, dỏng tai nghe một lúc rồi hí lên một tiếng. Cùng lúc, tiếng sáo đang dìu dặt chợt nấc lên rồi lịm tắt…
Khi Nàng Quện lên đến nơi thì trước mắt hiện ra cảnh tượng kinh hoàng. Bế Hài Phạ nằm úp mặt xuống tảng đá, giữa gáy cắm một mũi tên có đuôi bằng lông chim nhạn. Nàng sững người, xuýt nữa thì ngất. Phải đến già nửa khắc nàng mới có đủ can đảm rút mũi tên ra. Đó là mũi tên tẩm độc dài hơn bảy tấc.
Bản Tả Khai làm lễ chôn cất Hài Phạ ngay nơi chàng bị kẻ thù sát hại. Qua vài ngày, những người đi chợ sớm thấy chung quanh ngôi mộ mới có nhiều vết chân thú. Vốn là một thợ săn giầu kinh nghiệm, Hoàng Tịch chỉ thoáng nhìn đã biết ngay đó là vết chân báo.
Từ khi Bế Hài Phạ chết, bụng dạ Hoàng Khún lúc nào cũng bồn chồn như có lửa, nóng không chịu được. Suốt ngày chàng ta uống rượu say khướt rồi nhảy lên con ngựa ô phi như hoá rồ lên đèo Tả Giàng. Một đêm, lúc ấy đã khuya lắm, người nhà trưởng bản thấy con ngựa về mà không có chủ liền báo cho Hoàng Tịch. Ông ta vội sai thắp đuốc dẫn mấy thợ săn lên đèo thì đã thấy xác con nuôi nằm co quắp bên lèn đá, một mảng đầu vỡ toác bởi hàm răng nhọn của loài dã thú. Như có linh cảm mách bảo, Hoàng Tịch chống nạng bước thêm mấy bước tuột xuống bên kia dốc.Và ông trưởng bản chợt lặng người bởi hiện tượng quái lạ có một không hai trên đời bày ra trong ánh lửa chập chờn. Con báo vằn tuyệt đẹp, oai phong như một vị chúa sơn lâm, chính ông và nó đã từng săn đuổi nhau bao nhiêu năm nay, giờ nằm phủ phục bên mộ Bế Hài Phạ. Nó chết mà trên bộ lông rực rỡ như hoa như gấm không hề dính một vết thương.
Những ngày sau đó, cả bản không thấy nàng Quện đâu. Trưởng bản cử mấy tay chân thân tín đi tìm khắp nơi nhưng đều bặt vô âm tín. Sau này có người bảo, nàng cưỡi ngựa vào rừng ăn lá ngón rồi chết trong lều của Bế Hài Phạ, xác bị thú dữ tha đi. Có người lại bảo, nàng cầm cây sáo của người yêu để lại, rẽ cây vạch lối đến hồ Thang Hen. Nước hồ Thang Hen trong vắt màu lục ngọc, có thể nhìn thấy cả những con cá mạy vảy vàng lấp lánh dưới đáy. Nàng ngồi trên bờ lấy sáo ra thổi, thổi mãi cho đến một ngày kia hoá đá…
Từ độ ấy, những đêm trăng, lữ khách qua đèo Tả Giàng đều có cảm giác rờn rợn bởi những tảng mây hình thù kỳ dị bị gió ngàn đánh tướp ra như bông xơ, bạc phếch, mệt mỏi trôi trên vòm trời tai tái cùng cảnh cô tịch của miền sơn cước và truyền thuyết về câu chuyện tình dang dở của đôi trai tài gái sắc. Chỉ những bông cúc dại mọc lưa thưa bên vách đá là vàng rực như đang tự đốt mình cháy lên. Hàng năm, cứ vào dịp đầu xuân, đêm đêm các bản quanh vùng thỉnh thoảng vẫn nghe tiếng sáo văng vẳng từ lưng đèo vọng về.
Chí Linh, ngày lành, xuân Tân Tỵ
Đ.V.S
*Đơn vị đo độ dài đường đi (thường không cố định) của một số dân tộc ít người miền núi phía Bắc Việt nam