Nhà thơ Trần Nhuận Minh sinh: 20/8/1944, tại Điền Trì, Quốc Tuấn, Nam Sách, Hải Dương. Hiện sống và viết ở TP Hạ Long, Quảng Ninh. Đã xuất bản 34 tập sách, trong đó về sáng tác, có 19 tập Thơ, 3 tập Truyện vừa.Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007.

Nhà thơ Trần Nhuận Minh

Các tập thơ chính:

Đấy là tình yêu (1971), Âm điệu một vùng đất (1980, in lần thứ 2, năm 2016), Thành phố bên này sông (1982), Nhàthơ áp tải (1989), Hoa cỏ (1992), Nhà thơ và hoa cỏ (1993, in lần thứ 22, năm 2015), Giọt phù sa vạn dặm (2000),Bản Xônat hoang dã (2003, in lần thứ 13, năm 2015), Gửi lại dọc đường (2005, in lần thứ 6, năm 2011), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007, in lần thứ 5, năm 2013), Miền dân gian mây trắng (2008, in lần thứ 5, năm 2014), Bốn mùa – Four seasons (2008), Bốn mùa (2009, in lần thứ 2, năm 2011), Miền dân gian mây trắng – The white cloud popular area (2011), Cánh rừng đã bay về trời (2012) 陈润明 – 诗歌精选集 ( 2014) và Thành phố Dịu Dàng (2015).

Đã được tặng 17 giải thưởng văn học, trong đó có giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động VN, Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam, Ủy ban thiếu niên và nhi đồng TƯ, NXB Kim Đồng. Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007.

THƠ TRẦN NHUẬN MINH

CHIỀU YÊN TỬ

Tài tri vô tự thị chân kinh
(Mới hay không chữ chính là chân kinh)

NGUYỄN DU

Chợt ngân một tiếng chuông

Sắc cỏ bỗng hoe vàng

Như có ai lững thững

Trong bóng chiều lang thang

Tiếng chuông như hồn người

Cô đơn và thăm thẳm

Như nẻo đời quạnh vắng

Chẳng bao giờ gặp nhau

Tôi nằm trên vệ cỏ

Đối mặt với trời cao

Một nỗi niềm trinh bạch

Giữa bốn bề gian lao

Tiếng chuông đến tìm tôi

Toả từng vòng tím tái

Bông lau như mất hồn

Trắng mờ chiều hoang dại

Cuộc đời đến đâu ư?

Con người là gì vậy?

Họa phúc có hay không?

Kiếp sau ai đã thấy?

Mỗi người một câu hỏi

Đi mang mang trong đời

Nổi chìm bao ghềnh thác

Tôi chưa tìm thấy tôi…

Tiếng chuông lừng lững tắt

Rừng già chìm âm u

Những mảnh hồn thao thức

Bơ vơ trong sương mù…

Thượng Yên  4 – 1983

THÍM HAI VUI

Những năm chú ra trận

Thím buồn vui một mình

Thím bảo những năm ấy

Là những năm hòa bình

Có tin đồn chú mất

Thím thầm cắn chặt môi

Nuôi hai con ăn học

Cấy cày đến quắt người

Bỗng đột nhiên chú về

Tung huân chương đầy chiếu

Thím cười mà như mếu

Nước mắt chả buồn lau

Thế rồi… Biết vì đâu

Yên lành không chịu được

Vợ con, chú đánh trước

Xóm giềng, chú đánh sau

Chớ dại mà can chú

Chú nhất cả huyện rồi

Giặc nào chú cũng thắng

Có thua, thua ông trời!

Chỉ thương thím Hai Vui

Mặt mũi luôn thâm tím

Đến bây giờ chiến tranh

Mới đến thật với thím

Chú đòi phải li dị

Mỗi con về một nơi

Thím hát như kẻ dại

Miệng mếu lại thành cười

Nghe đâu thím lên tỉnh

Rửa bát cho người ta

Thấy ai quen cũng lánh

Những mặt phấn quần hoa…

Bồ Hòn  10  – 1988

NHỚ MỘT ĐẢNG VIÊN TRONG
CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT

Những nông dân vừa được anh giải phóng

Đã lôi anh đến cạnh thùng vôi

Họ bắn anh. Nhưng không bắn trúng

Tay họ chỉ quen cầm cuốc thôi

Nhát cuốc đầu tiên. Mặt nhoè máu tươi

Phút hiểm nguy vẫn tin vào Cách Mạng

Anh kêu lên. Tiếng kêu đứt quãng

– CÁC ĐỒNG CHÍ…

ƠI!…

Điền Trì  3- 2- 1980

BẠN CHƠI TỪ THUỞ
QUÀNG KHĂN ĐỎ

Nửa đêm gõ cửa tìm nhau

Đèn che nửa bóng, mái đầu chụm đôi

Bác rằng Cơm đã ăn rồi

Có chai rượu thuốc ta ngồi uống chung

Bạn chơi từ thuở khăn hồng

Đứa nhờ có vợ có chồng mà lên

Đứa đi đánh giặc liên miên

Về quê vẫn chú lính quèn, vậy thôi

Đứa thì đêm lạy van người

Ngày ngày vênh váo, coi trời bằng vung

Đứa làm đạo diễn văn công

Nỗi đau đời, giấu vào trong tiếng cười

Đứa đi buôn ngược bán xuôi

Vào Nam ra Bắc ăn chơi một mình

Đứa thì làm giám đốc ngành

Đi đâu cũng có nhân tình đi theo

Đứa thì áo túm quần đeo

Tinh mơ vác gạo, xế chiều bơm xe

Đứa liều vượt biển trốn đi

Nổi chìm nào biết tin gì thực hư

Đứa thì làm trưởng trại tù

Gặp nhau, tay bắt lạnh như đồng tiền…

Cùng thầy, cùng đội, cùng niên

Lớn lên ai biết làm nên thế nào

Tại trời hay tại ta sao

Nhảy ra thì thịnh. Bước vào lại suy

Sự đời bác đến thế thì

Đã làm ông giáo còn đi buôn nhà

Sớm mai, bác phải ra toà

Khôn ngoan biết lấy chi mà đãi nhau

Kể gì hơn thiệt nông sâu

Lòng lành, mà chắc sự đâu đã lành…

Bâng khuâng nỗi bạn nỗi mình

Ngoài hiên trăng khuyết nửa vành xa xôi

Ước chi về tuổi chín mười

Vẫy khăn quàng đỏ giữa trời thẳm xanh…

Bồ Hòn  1987

NHÀ THƠ ÁP TẢI

Tặng nhà thơ Thanh Tùng

Bạn từ Hải Phòng sang

Toả đầy sân mùi biển

Nói đủ mọi thứ chuyện

Tay vung hai phía trời

Bạn làm nghề áp tải

Đường bộ và đường sông

Thỉnh thoảng lại gặp cướp

Còn trộm thì… Mênh mông

Đất nước có một thời

Kẻ gian nhiều như nấm

Không ngờ một nhà thơ

Lại sống bằng… nắm đấm

Đã từng cho một “chưởng”

Những thằng đến “mổ” hàng

Cũng từng bị nó đánh

Thuốc xoa vài ba thang

Đã từng uống chè vặt

Đói đến vàng mắt ra

Cũng từng ngày hai bữa

“Thả phanh” nhai thịt gà

Tải hàng không được mất

Đêm đêm thức cùng sao

Thơ trong đầu nổi loạn

Mà chẳng nên bài nào

Bạn “choảng” liền một mạch

Bọn sống chỉ vì tiền

Đứa viết gì cũng giả

Lại được đài, báo khen

Khi buồn đừng uống rượu

Lúc vui chớ lắm lời

Bạn rằng Tao chấp tất

Miễn hàng đưa tới nơi

– Hãy áp tải sự thật

Đến những bến cuối cùng!

Chai rượu ngang, dốc ngược

Đứng cùng trời

Uống chung…

Bồ Hòn, thu 1986

CHÁU ĐI ĐÀO THAN THỔ PHỈ (1)

Tháng trước còn qua nhà chú

Hôm nay cháu đã chết rồi

Mừng ơi!

Cháu đi đào than thổ phỉ

Lấy tiền nuôi mẹ nuôi em

Sập lò, cột đè gẫy nát

Xác buộc túm trong vải bạt

Than đổ ứ đầy lên trên

Xe chạy trốn người, qua đêm…

Cháu nằm bẹp dưới thùng xe

Nước than ngâm cháu đen sì

Rửa đến bao giờ cho sạch

Mừng ơi!

Đã qua cái thời đói rách

Làm sao còn khổ thế này

Đêm khuya, mưa tầm tã trút

Xe về bánh lầy, bánh sụt

Đường dài, gió lùa hun hút…

Mẹ cháu sẽ nhận được gì

Tiền ư? Gạo ư? Vải ư?

Em cháu sẽ nhận được gì

Cặp ư? Sách ư? Bút ư?

Cháu nằm túm trong vải bạt

Mặt mũi than đè giập nát

Xe than đổi một mạng người

Chú biết kêu cùng ai được

Mừng

ơi!

1993

BÀI THƠ KHÔNG ĐỊNH VIẾT

Không phải con tôi. Không phải cháu tôi

Tôi cũng chẳng bao giờ quen biết nó

Hãy trông! Nó hoàn toàn còn là một thằng nhỏ

Đạp nó thế đủ rồi! Tát nó thế đủ rồi!

Nó có tội chi? Bác ơi, chị ơi

Ăn trộm ư? Một bánh mì kẹp thịt

Đây tôi trả tiền cho. Thế này nhiều hay ít?

Thả nó ra, đánh đập quá nhiều rồi…

Mặt nó sưng vêu tím như vỏ ốc nhồi

Răng nó lung lay. Mép ứa dòng máu đỏ

Có thể nó không còn mẹ còn bố

Nó đi xin vỏ bao xi măng ở các nhà xây…

Giành một miếng ăn mà bị xử đến mức này

Với trẻ con, sao các người ác thế?

Không ai vô can, khi một em bé

Đến ngày hôm nay vẫn còn đói bánh mì

1 – 6 – 1994

GỬI BÁC VƯƠNG LIÊN

Nghe đâu bác bây giờ

Đóng tiền vào bao tải

Thuê những hai hầu gái

Giặt quần và đấm lưng

Thôi thế em cũng mừng

Quả là sông có khúc

Cứ như bác ngày xưa

Em biết là rất cực

Trước cần lí lịch tốt

Giờ cần có lắm tiền

Phải chăng bác nói đúng

Em ngù ngờ không tin

Em vẫn vầy vậy thôi

Bụng khi no khi đói

Tiền lúc có lúc không

Vợ chợt mừng chợt dỗi

Sự đời bao rắc rối

Phải trái tính sao đây

Lòng mình thì nhàu nát

Kinh sách thì thơ ngây

Em chưa ở trong Nam

Chắc còn chưa được thoáng

Cái thằng bé thuở nào

Bác dạy làm Cách Mạng

Bác đi, em vẫn nhớ

Gặp ai hỏi thăm luôn

Thỉnh thoảng qua làng bác

Tự nhiên cứ chạnh buồn

Chẳng biết có khi nào

Bác chợt thương người cũ

Chị ấy vẫn lam lũ

Vẫn một mình nuôi con…

1989

HÀ GIANG

Cuồn cuộn mà im lặng

Mặt đỏ lừ trong ánh sao trôi

Sông Lô đi qua đêm như một kẻ giết người

Lặng lẽ bông lau rừng thả hồn vào mây trắng…

Cây đại ngàn nhuốm màu thu lớp lớp

Đỉnh Tây Côn Lĩnh ngút cao

Núi như đàn ngựa đang gào thét

Giữa trời

Lao

Cỏ non Đồng Văn hương thơm gió bay…

Ta hỏi Lô giang: Chảy mãi mà làm gì?

Ta hỏi Tây Côn Lĩnh sơn:

Cao thế có buồn không?

Chợt thấy bông lau rừng

Ta lặng nhìn

Bất lực

A ha! Trời xanh, nước xanh, núi xanh, ta xanh!…

Ta đi một mình cuối mùa hoa rơi

Chán hết mọi sự đời

Hắt rượu lên mây trắng...

Đặng Yên  8 – 1994

PHÚT LÂM CHUNG CỦA CỤ HÃN

Nhờ ông viết giùm bài báo

Xin lỗi hàng ngàn trẻ con

Một đời tôi chuyên đánh chúng

Có đứa đến hộc máu mồm

Không tiền mà muốn xem phim

Chúng có trăm mưu ngàn kế

Vẫn không che nổi mắt tôi

Chiến sĩ thi đua là thế!

Trèo tường chui qua cửa sổ

Quấn mình trong tấm màn nhung

Nằm bẹp dưới gầm ghế lớn

Tôi cũng moi ra tận cùng

Đất nước chả giàu lên được

Dù tôi chắt bóp từng đồng

Muốn thiện lại thành ra ác

Có ai giống với tôi không?

– Thưa cụ khó mà viết báo

Tôi làm thơ có được chăng?

Úp mặt vào tường, từ đó

Cụ im chẳng nói chẳng rằng

Cụ đã giã từ cuộc sống

Vong linh muốn được thanh nhàn

Thương ôi!

– Hỡi các bạn trẻ

Tha cho lỗi lầm thế gian…

1991

TRÊN SÂN BAY QUỐC TẾ
SEREMECHEVÔ

Dẫu sao cũng đất nước người

Thôi em đừng đứng giữa trời mà kêu

Mấy ai thương đến kẻ nghèo

Tấm thân đày đoạ đến điều… chưa xong

Hàng em bị cướp nhiều không

Áo nhàu nếp gấp, mặt phồng vết đau

Tưởng rằng hết kiếp ngựa trâu

Nào ngờ lại thấy ngang đầu… dùi cui

Đỏ xanh cũng một chân trời

Đến đâu cũng một cuộc đời làm thuê

Thôi đừng khóc nữa mà chi

Đã qua cửa khám thì về cho xong

Người thân đợi mấy năm ròng

Mất hàng những vẫn được lòng mẹ cha…

Cửa ngoài anh đã bước ra

Thấy em còn đứng như là trời chôn

Đường bay thăm thẳm nỗi buồn

Phận em, ai biết sẽ còn ra sao…

11 – 6 – 1990

DẶN CON

Chẳng ai muốn làm hành khất

Tội trời đày ở nhân gian

Con không được cười giễu họ

Dù họ hôi hám úa tàn

Nhà mình sát đường, họ đến

Có cho thì có là bao

Con không bao giờ được hỏi

Quê hương họ ở nơi nào

Con chó nhà mình rất hư

Cứ thấy ăn mày là cắn

Con phải răn dạy nó đi

Nếu không thì con đem bán

Mình tạm gọi là no ấm

Ai biết cơ trời vần xoay

Lòng tốt gửi vào thiên hạ

Biết đâu nuôi bố sau này…

Cửa Lục Thủy  13 – 11-1991

MÂY TRẮNG

Nếu không có câu thơ

Bạch vân thiên tải không du du (1)

Thì mây trắng trên trời Trung Hoa,

không trắng đến nỗi thế

Tôi đi hàng ngàn cây số đến xứ sở Người

Để chỉ nhìn làn mây trắng này thôi

Làn mây trắng một lần, bay qua lầu Hoàng Hạc,

bay qua hồn Thôi Hiệu

Vĩnh viễn trẻ và buồn, sống trên trời xanh

Khát vọng Tự Do và nỗi cô đơn thăm thẳm

Thấm vào tôi từ tuổi trong lành

Hạc Vàng có bay về cũng chả còn chỗ đậu

Nhà nhọn mọc như măng, trên bãi cỏ non xưa

Nơi Thôi Hiệu đề thơ, chỉ còn là chỗ thu tiền

của khách du lịch

Mây có trắng hết mình thì người đời cũng vẫn thờ ơ…

Sau một ngàn hai trăm năm, Thôi Hiệu

làm sao hình dung được

Có một nhà thơ từ tận cùng phương Nam,

đến ngắm làn mây bay qua thơ Ông

mà thương cảm bàng hoàng

Và thức suốt đêm trong thu lạnh

Nghe tiếng tàu ầm ầm lao qua sóng

Trường Giang…

Bắc Kinh  18 – 9 – 1999

LÃO XÁ

Ông vốn là người mềm yếu, sẵn sàng đổ tội chết

cho bất cứ ai, miễn là cứu được mình

Nhưng rồi Ông có cứu được Ông đâu

Ông tự trẫm xuống đáy hồ Thái Bình (1)

trong nỗi khiếp đảm

Lũ trẻ con từng lấy thắt lưng da có móc sắt

quất vào mặt Ông

Giờ lôi xác Ông lên phơi nắng

Văn chương lỗi lạc một thời

Bể dâu đến thế thì thôi còn gì!…

Chúng đốt Tường Lạc Đà của Ông

Nhưng nó mãi mãi vẫn là một trong những kiệt tác

Nhân dân Trung Hoa nhờ những kiệt tác ấy mà bất tử

Tôi cũng vì những áng văn ấy mà đến đây

Bao người cũng đến như tôi, bằng đường bộ,

đường thủy, đường bay

May sao còn có những ngày

Nắm xương mỏng, dưới đất dày, bình yên…

Ông đón tôi nơi chiếu nghỉ cầu thang

Bên phải là Quán Trà, bên trái là Sân Khấu (1)

Trong kính trắng, mắt Ông cười hiền hậu

Như đất nước Ông chưa từng đứng bên bờ hủy diệt

Như Ông chưa từng có cái chết

Nào ai hiểu được lòng Ông

Cái giây phút chót khuất trong cõi đời

Ngoài kia, Quảng trường Thiên An Môn,

đèn màu chiếu lên lưng trời

Dưới Cống Long Tu bao nhiêu nước trôi

Đường tàu điện ngầm, người đi chen nhau,

một thời qua mau

Trên gương mặt ai dần phai nỗi đau

Nghĩ gì hôm nay, nói gì mai sau…

Nhạc bay từ Đại Tửu Lâu

Tôi đi, mái tóc ẩm màu trăng khuya…

Bắc Kinh  18 – 9 – 1999

NGUYỄN DU

Đến đâu con cũng gặp Người

Xin dâng chén rượu giữa trời Trung Hoa

Hạc Vàng một bóng Lầu xa

Hồ Nam úa ráng chiều tà hanh heo

Tiệc to thường ở nơi nghèo

Đồng ngô khô xác, mái lều gió lay

Người xưa đi sứ qua đây (1)

Bùn lưng bụng ngựa, sông đầy thuyền trôi

Cỏ cây, thành lũy khác rồi

Hoàng Hà đã cạn, thơ Người vẫn sâu

Thời nào thì cũng như nhau

Nỗi buồn li biệt, nỗi đau dối lừa

Tiền Đường sầm sập đêm mưa

Nước âm u chảy như chưa vớt Kiều (2)2

Nghiệp Thành còn tiếng quạ kêu (3)

Lâm Tri bến cũ, cầu treo rực đèn

Sắc tài chi để trời ghen

Người đâu phải nước đánh phèn cho trong

Cõi đời đâu cũng long đong

Văn chương bạc phận, má hồng vô duyên

Bời bời những cuộc đỏ đen

Chính trường sấp mặt, đồng tiền xoay ngang1

Đặt chân lên đỉnh Thiên Đàn

Bốn bề mây trắng thu vàng lá rơi

Bâng khuâng con lại thấy Người

Vái Người, con đứng ngang trời Trung Hoa…

Cố Cung  21 – 9 – 1999

VẠN LÍ TRƯỜNG THÀNH CA

Phải đến Trường Thành mới là hảo hán a (1)

Hàng chục triệu người tàn

Hàng trăm ngàn người chết

Xác xây vào Thành còn lộ ra xương trắng

Nấm mộ âm u dài hơn vạn dặm

Chắn ngang mặt địa cầu

Tưởng còn thấy từng dãy người,

xếp hàng lên đến tận trời a

Chuyển đá vào mây trắng

Tiếng roi thét ngang đầu

Tiếng ngựa hí cháy những triền dốc đứng

Tiếng đá và người, ào xuống vực

Xương máu muôn dân thành đá vữa a

Vua chúa cất lên kì quan

Tội ác tột cùng đẩy công trình lên tột đỉnh

Bóng Tần Thủy Hoàng lừng lững trong sương lạnh

Cờ xí bay ngút ngát…

Hùng vĩ, ngang tàng và bí hiểm a

Từng chặng nối nhau lên cao mãi

Vọng gác ngàn năm khuất trong mây mù

Chim trời đập cánh rồi rơi xuống

Gió cũng bị chặn lại rồi thổi ngược chiều

Thiên hạ đệ nhất hùng quan (1) quả là xứng danh a

Sức lực của thánh thần, trí tuệ của ma quỉ

Tranh cao với trời, tranh dài với đất

Rốt cuộc bảo vệ ai?

Muôn dân đau khổ và oán hận…

Ta là Công dân nước Việt Nam, đến đây,

không biết sau những ai,

không biết trước những ai a

Ngửa mặt lên trời mà than rằng:

Bức trường thành bền vững nhất

của mọi quốc gia chính là lòng DÂN

Nếu Tần Thủy Hoàng nghe trước được lời của TA

Thì triều đại ông, không đến nỗi hơn một đời đã mất

Vạn Lí Trường Thành  9h 19 – 9 – 1999

NĂM KHÚC HÁT
BÊN BỜ TRƯỜNG GIANG

1

Lá phong buồn ven sông

Khẽ rơi một giọt vàng

Bồng bềnh đốm lửa chài ngàn tuổi

Trôi trong mây lang thang

Chợt nghe vang vọng

Tiếng chuông chùa Hàn San

Chạm vào hồn ta, gió thu nay hay gió thu xưa

Ta hát khúc Một, ô hô, tình dây dưa…

2

Xích Bích ở đâu?

Đã im tiếng sóng

Lửa trận tàn rồi

Tào Tháo, Chu Du thành bụi cả

Chỉ nỗi đau muôn dân là còn đến nay thôi

Trường Giang cuồn cuộn trôi,

đưa máu và nước mắt ra biển

Đừng hỏi vì sao biển mặn đến bây giờ

Ta hát khúc Hai, ô hô, trời sắp mưa…

3

Ta ngưỡng mộ cúi chào những đền thờ

thấp thoáng đỏ trong vòm xanh cổ thụ

Lưu Bang, Hạng Vũ, Dực Đức, Quan Công…

Tên các anh hùng dài như núi

Những mảnh thành vỡ cô đơn, cao vời vợi

Những tấm biển chỉ chiến trường xưa,

giết mấy chục vạn người

Có lắm anh hùng, đất nước bình yên là một điều vĩ đại

Không cần có lắm anh hùng, đất nước vẫn

bình yên còn vĩ đại hơn nhiều!

Ta hát khúc Ba, ô hô, lời phiêu diêu…

4

Mặc ai yêu ta, mặc ai ghét ta

Vắt câu thơ Đường ngang vai, đi khắp nước Trung Hoa

Ối chao hồ rộng! Ối chao núi cao!

Xin đừng bao giờ nổi lên binh đao

Những người yêu nhau, mặt mũi sáng trưng

Những người ghét nhau, mặt mũi tím bầm

Làm xấu mặt mình đâu phải điều hay

Ta hát khúc Bốn, ô hô, niềm vui say…

5

Đường cao tốc, mở

Đường thủy, mở

Đường bay, mở…

Trung Hoa xoè hàng ra khắp năm châu

Người như sông

Tiền như nước

Biệt thự như rừng

Tàu vũ trụ lên Trăng

Du khách bốn phương ríu rít trăm giọng nói…

Trường Giang hỡi! Ta mong mọi quốc gia

bước lên những đỉnh cao mới

Bằng những bậc thang không có máu người!

Ta hát khúc Năm, ô hô, đời xanh tươi…

Thượng Hải – Nam Kinh  17 – 9 – 1999

GỬI CHÁU

Viết sau khi cháu là chủ tịch huyện,
nhà bị cướp đêm, cháu bị thương nặng

Cháu ơi,

Nhà quan là phải xa đường

Cái cổng phải kín, cái tường phải cao

Trong nhà ăn ở làm sao

Đừng cho dân biết dân vào dân ra

Tình giai cấp, nghĩa cao xa

Nói trong hội nghị chỉ là nói thôi

Cũng may sự đã thế rồi

Vết thương phải vá mặt người… chẳng sao

Mất dù quá nửa hầu bao

Còn tay, tiền của lại vào như không…

Cháu ơi,

Làm quan là phải đề phòng

Phòng trên, phòng dưới, phòng trong, phòng ngoài

Bây giờ đâu cũng mô bai (1)

Tin ai mà chả tin ai mới là…

Giật mình khối chuyện quanh ta

Nghĩ vào thì được, nói ra thì đừng

Chớ mong bè bạn thuỷ chung

Tung hoa phía trước, phản thùng phía sau

Quan trường là chốn bể dâu

Càng yêu CÁCH MẠNG càng đau cõi lòng

Lại còn dây dợ lòng vòng

Ngậm ngùi thương cháu, mà dòng lệ rơi…

2 – 7 – 1998

CỤ CHIẾN TIỄN CHÁU GÁI 
ĐI GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH 
Ở NƯỚC NGOÀI

Cháu đã qua lớp học

Tập lau nhà, thùa khuy

Tập hầu cơm ông trẻ

Đưa tăm cháu phải quỳ

Tập ăn thừa dưới bếp

Tập khóc chẳng ai hay…

Bài học thời mất nước

Ai ngờ dùng hôm nay

Ba mươi năm thắng giặc

Ngẩng đầu trong đạn bom

Đói nghèo run tay gậy

Cụ đứng bên đường mòn…

6  – 1998

MỘT TRĂM BƯỚC CUỐI CÙNG

LỜI TÁC GIẢ

Tôi đi thực tế sáng tác suốt cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc từ năm 1978, nổ súng năm 1979 và rải rác kéo dài đến năm 1984.

Một chiều, cuối tháng 4.1979, rất tình cờ, tôi được đọc trên báo Nhân Dân về một nữ công nhân lâm trường đã đưa giặc vào bãi mìn. Tôi rất xúc động viết luôn bài thơ dài này. Tác phẩm đã đăng báo và sau đó được in ở tập thơThành phố bên này sông (1982). Tôi rất biết ơn báo Nhân Dân đã cho tôi tư liệu và nguồn xúc cảm để tôi hoàn thành tác phẩm này và tôi lưu lại đây như một kỷ niệm về một quãng đời làm thơ của mình, ở một thời điểm có một không hai của lịch sử đất nước trong thế kỉ XX.

T.N.M.

Tôi muốn gì ư?

Tôi muốn sống

Tôi muốn làm mẹ…

Cái giản dị tột cùng sao giờ khao khát thế

Nhưng tôi không có cách nào

99 BƯỚC

Thực ra thì tôi có cách đấy

Nếu tôi muốn cứu con tôi

Đứa con đang bắt đầu thành người

Nằm co trong bụng tôi như một con tôm

Búng vào sườn tôi như một con tôm

97 BƯỚC

Tôi sinh ra ở một làng quê

Có lũy tre xanh như bao làng quê khác

Tôi lớn lên đi học

Dở dang chưa qua được lớp 10

Một thế hệ đã vào đời như vậy đấy

Có thể nói cái gì cũng dở dang

Chỉ tuổi thanh xuân là nguyên vẹn

Hiến dâng cho Tổ Quốc

Tôi đã góp một bàn tay nhỏ

Mở con đường lớn Hồ Chí Minh

Ngang dọc Trường Sơn những năm

Gian khổ và hùng tráng

Tôi về lâm trường

Giữa lúc người Hoa chảy đi như một dòng lũ xối

Không sức nào cản được

91 BƯỚC

Tôi đếm từng bước chân

Không, tôi chỉ đoán chừng như vậy

Cái khoảng cách cuối cùng này

Xuyên qua đời tôi như một cây xương rồng gai

Cơ thể tôi cảm biết sâu sắc

Tất cả sự chà xát của nó

Cái khoảng cách cuối cùng này

Xuyên qua đời tôi

như một tia chớp giật

Tôi nhận ra mình hoàn toàn trong sạch

Tinh khôi như vừa sinh ra…

Tôi đã chọn cho mình một cách sống

Thì tôi cũng chọn cho mình một cách chết

Chọn cách chết nghĩa là chọn cách sống

Và tôi ngẩng cao đầu

Thanh thản

đi…

86 BƯỚC

Tôi đã tập, đã tập, đã tập

Không phải tập đi, mà tập nhìn

Để hiểu được những biến đổi rất nhanh

Của thời đại

Để tôi không chóng mặt

Khi nhìn vào ngôi sao đỏ lấp lánh

Hiện lên trên mũ kẻ thù

Đã nhiều năm đứng sát sau lưng chúng ta…

Ngôi sao đỏ tôi hằng tin yêu

Suốt những tháng năm tôi thơ ấu

Tuổi thơ ấu của tôi đã bị phản bội

Niềm tin yêu của tôi đã bị phản bội

Không nỗi đau nào giống nỗi đau nào

78 BƯỚC

Nhưng nỗi đau này của tôi

Cả dân tộc tôi đang phải chịu đựng

Không, dân tộc tôi không phải chỉ có chịu đựng

Dù chúng tôi đã tự kìm chế

Và nhận về mình một phần hy sinh

Chúng tôi đã khép lại một cuộc chiến tranh

Không muốn lại mở ra

Cuộc chiến tranh khác nữa

Chúng tôi muốn đất mọc lên cây lúa

Mặt sông mọc lên cây buồm

Còn tôi ư? Tôi muốn sinh con

Được bế bồng như bao người mẹ

Được bình thường như bao người mẹ

Được dịu ngọt và độ lượng như bao người mẹ

Chính vì thế, chúng tôi đã tự kìm chế

Dù…

69 BƯỚC

Tôi đếm từng bước chân

Không, tôi chỉ đoán chừng như vậy

Và như thế, khoảng cách giữa tôi với cái chết

Cứ gần lại đến khủng khiếp

Đây là cuộc chiến tranh một mất, một còn

Một mình tôi, tôi cũng phải là một dân tộc

Một mình tôi, tôi cũng phải chịu trách nhiệm

Trước lịch sử

Một mình tôi, tôi cũng phải chiến thắng

Tôi muốn kêu to lên một tiếng

Tổ Quốc!

Nhưng kêu lên để mà làm gì

Giữa cánh rừng đổ ngổn ngang

Vì đạn đại bác địch

Giữa những xác chết

Xác đồng đội tôi và rất nhiều xác giặc

Có thể nói là chùm lợp lên nhau

Dấu vết của một trận đánh giáp lá cà

Một trận đánh mà ngoài con dao găm

Cái dây lưng hay hòn đá

Ngoài nắm tay hay những cái răng

Tất cả vũ khí khác đều vô ích

Tôi đã đánh một trận như thế

Với thứ vũ khí cuối cùng trong tay

Báng một khẩu súng trường đã gẫy

Tôi cầm đập bừa vào mặt giặc

Chúng đông vô kể

Nhưng sức lực thì có hạn thôi

Chúng hoảng sợ chạy xa tôi

Tôi bị bắt không phải vì chúng mạnh

Mà vì con tôi đã lên tiếng

Nó đạp vào sườn tôi một cái

Mạnh đến nỗi làm tôi chao đi

Tôi rủn cả ruột gan

Tối sẩm cả mặt mày…

Hỡi những ai, những ai, những ai

Sẽ đọc niềm tâm sự này của tôi

Hãy hiểu cho tôi cái lúc đó nhé

Cái lúc tôi rủn cả ruột gan

Tối sẩm cả mặt mày

Cái lúc tôi gần như buông tay

Cái lúc ấy – một khoảng khắc thôi

Nhưng bây giờ đã là tất cả

Tôi tự trách mình tại sao lại như vậy

Nhưng tôi không thể giải thích được…

CÓ LẼ CHỈ CÒN 52 – 51 BƯỚC CHÂN

– Nhưng tôi không thể giải thích được

Thực tình là lúc ấy, một khoảng khắc thôi

Tôi không nghĩ được cái gì khác

Ngoài một niềm mong manh

Như cánh bướm này

– Con tôi

Con tôi đấy!

Cái giọt máu nhỏ nhoi

Cái bóng dáng cuối cùng của tôi

Sự ký thác của tôi trên mặt đất

Nó đang đòi sự sống

Tôi là người duy nhất ở trên đời này

Được biết nó và được chịu trách nhiệm về nó

Thoáng nghĩ ấy làm tôi bàng hoàng

Và thế là, rất nhanh

Tôi bị bắt

Và bây giờ, chúng bắt tôi dẫn chúng

Chúng ngu đến nỗi, tưởng rằng

Vì một đứa con, dù đó có thể là tất cả

Đối với tôi

Tôi có thể làm theo ý chúng

Chúng thúc tôi đi

37 BƯỚC

Còn bây giờ, tôi thúc chúng đi

Bởi tôi biết, tôi phải đi đường nào

Để tìm về với Tổ Quốc

Nhưng thoạt đầu, tôi chưa nghĩ được như vậy

Và tôi dẫn chúng đi loanh quanh

31 BƯỚC

Ngày đã mở đầu như thế nào

Không phải với mặt trời lên và tiếng chim hót

Ngày đã mở đầu

Bằng hàng loạt đại bác

Vào lức hơn 12 giờ đêm

Vào lúc bạn tôi đang ngủ say

Còn tôi thì thức gác

Tôi chưa bao giờ

Nghe thấy tiếng đại bác

Dính liền nhau thành một mảng

Rền ở trên trời

Rền ở dưới đất

Tôi cũng chưa bao giờ trông thấy

Kẻ thù đội mũ, mặc áo như ta

Chạy sau lá cờ ta

Bắn vào ta bằng khẩu súng ta cầm…

24 BƯỚC

Tôi nghe vang tiếng những bước chân

Cuối cùng

Của tôi

Trong rừng cây

Tôi thấy chợt hiện lên

Dáng mẹ hao gầy

Còng lưng xách nước

Cái cầu ao

Gióng tre ngà thân thuộc

Mẹ ơi!

Sẽ có nhiều người nuôi dưỡng mẹ thay con

Nhưng con của mẹ thì không ai thay được

Cho dù thế, con cũng không muốn mình

Có số phận khác với các bạn con

Những người suốt tuổi thanh xuân

Đã đứng cùng con

bên vách chiến hào

Đất bóng nhẫy lên vì những vết xẻng

Tay hứng giọt nước trong

Chảy từ một rễ cây

14 BƯỚC

Bằng con đường này

Tôi lại gặp người yêu

Anh đứng chờ tôi

Một mình trong bóng tối

Anh yêu ơi, tôi nói

Hãy tha thứ cho em

Những gì em vụng dại…

12 BƯỚC

CÓ LẼ CHỈ CÒN 10 BƯỚC –

9 BƯỚC NỮA THÔI

Tôi đã đặt chân lên con đường mòn nhỏ

Chạy qua bãi cỏ hoang

Sau bãi cỏ hoang là dãy đồi nhấp nhô răng cưa

Các cỡ súng của ta

Đã phục sẵn ở đó

Hai bên đường, nấp trong cỏ

Là những quả mìn và những mũi chông sắt

Chính tôi đã cùng đồng đội

Gài mìn và cắm chông

Ơi bãi cỏ thân yêu, bãi cỏ hiền lành

Đã cất giấu bài ca

Hãi hùng và dang dở của tôi

Sẽ cất lên bài ca

Bi tráng và chiến thắng của tôi…

Quân giặc đã lọt vào trận địa rồi

Đây là việc cuối chót

Tôi có thể làm được

Vì sự sống còn của Tổ Quốc

Con ơi!

Đứa con đang thành người

và quá bé bỏng của mẹ

Sự ký thác của mẹ

Cái bóng dáng cuối cùng của mẹ

Hãy yên, hãy yên nào

Đừng có thức tỉnh vào lúc này

Đừng có đạp bụng mẹ vào lúc này

(Nếu vậy, mẹ sẽ không có đủ can đảm)

Đừng có… đừng có…

Chỉ cần một phút nín thở

Mẹ sẽ chạy ào vào bãi cỏ

Và thế là những kẻ giết con

Sẽ tan xác trong những tiếng nổ dây chuyền

Của mìn và những loạt đạn

trên đồi                                                                                                                           xả xuống

Nào, hãy yên, hãy yên

Mẹ ru con một lời cuối cùng

Một lời ru không có âm tiếng

À ơi… ả à ơi…

Hãy ngủ ngoan, con

Cái ngủ mày ngủ cho ngoan…

Cho…

Cho lòng mẹ thêm thanh thản

Cho người mẹ thêm nhẹ nhõm

Để mẹ chỉ cần giang hai cánh tay ra

Thế là mẹ con ta

Sẽ bay lên như cánh chim

Bay lên…

bay lên…

bay lên

như cánh chim…

Như

Cánh

Chim

Viết ở xã Quảng Nghĩa

Biên giới, 4.1979


(1) Than thổ phỉ hoành hành dữ dội từ năm 1988, năm 1993

là đỉnh điểm, Thủ tướng Chính phủ phải về tận nơi dẹp

(1) Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi (dịch), một câu thơ trong bài Hoàng Hạc Lâu (Lầu Hoàng Hạc) của Thôi Hiệu (701-754)

(1) Hồ ở đường Tân Nhai, ngoại ô phía bắc thủ đô Bắc Kinh

(1) Tượng bán thân nhà văn Lão Xá (1899-1966) tác giả tiểu thuyết Tường Lạc Đà và vở kịch nói Cống Long Tu. Theo một nguồn tư liệu, ông được xét tặng giải Nobel Văn chương 1968. Biết ông đã tự tử trong Cách  mạng Văn hoá ngày 26-8-1966, giải đã trao cho nhà văn Châu Á kế tiếp ông là Kawabata, Nhật Bản

(1) Năm 1813-1814,  Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc

(2) Thuý Kiều (trong Truyện Kiều) trẫm mình ở sông Tiền Đường

(3) Nghiệp Thành: Nơi đóng đô của Tào Tháo, thời Tam Quốc

(1) Từ một ý thơ của Mao Trạch Đông

(1) Dòng chữ đề ở lầu cổng Vạn Lí Trường Thành

(1) Điện thoại di động

 

Vanvn.net