Những lúc nghỉ ngơi, có dịp gặp nhau là họ bàn thảo về cái hay, cái tuyệt vời trong tác phẩm của cụ Nguyễn Du.
Còn vận Kiều cả khi vừa trên mặt đường về, mặt mũi lấm lem khói bụi, thư giãn cùng “nàng”, cười nghiêng ngả quên chết, quên mệt. Họ được lính Trường Sơn trìu mến gọi là “ba anh Kiều”. Và “ba anh” thực sự trở thành hạt nhân của một phong trào văn hóa mới tự phát ở mọi lúc, mọi nơi, góp phần thổi bùng tinh thần lạc quan, yêu đời trên tuyến đường mà không ngày nào không có người ngã xuống vì bom đạn, sốt rét rừng…
Ba anh Kiều
Những năm 1967-1968 vào Trường Sơn có ba sĩ quan cao cấp, tăng cường cho Bộ Tư lệnh Đoàn 559: Nguyễn An, Tham mưu trưởng vận tải; Nam Hải, Tham mưu phó công binh và Nguyễn Chúc, Tham mưu phó vận tải. Không hẹn mà trong ba lô con cóc đi B của ba ông đều có những bản Truyện Kiều quý hiếm. Nguyễn An có quyển xuất bản năm 1925 của Vĩnh Hưng Long thư quán Hà Nội do Bùi Kỷ hiệu đính; Nam Hải có quyển Kiều Tây, Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra tiếng Pháp; còn Nguyễn Chúc mang theo quyển Kiều do Tản Đà chú dẫn, nhà sách Hương Sơn tái bản năm 1952. Họ đều là những nhà quân sự từng trải, xông pha trận mạc từ thời chống Pháp, song lại có một sở thích giống nhau là rất mê… nàng Kiều. Những lúc nghỉ ngơi, có dịp gặp nhau là họ bàn thảo về cái hay, cái tuyệt vời trong tác phẩm của cụ Nguyễn Du.
Một nhóm chiến sĩ ở Binh trạm 14 đường Trường Sơn trong giờ nghỉ đang đố Kiều (năm 1972). Ảnh: Vương Khánh Hồng
Còn vận Kiều cả khi vừa trên mặt đường về, mặt mũi lấm lem khói bụi, thư giãn cùng “nàng”, cười nghiêng ngả quên chết, quên mệt. Họ được lính Trường Sơn trìu mến gọi là “ba anh Kiều”. Và “ba anh” thực sự trở thành hạt nhân của một phong trào văn hóa mới tự phát ở mọi lúc, mọi nơi, góp phần thổi bùng tinh thần lạc quan, yêu đời trên tuyến đường mà không ngày nào không có người ngã xuống vì bom đạn, sốt rét rừng…
Đố Kiều
Khó có thể nói trình độ thuộc và hiểu Kiều của “ba anh” ai hơn ai, họ thường khảo nhau vui đáo để. Tết Mậu Thân (1968) sau khi nghe lời chúc tết của Bác Hồ, cánh tham mưu kéo nhau vào hầm của Tham mưu phó Nam Hải, vốn được bầu là “nhóm trưởng”. Trưởng nhóm ra đề: Lúc nãy ở hội trường ta đã hô quyết tâm, vậy phải tìm ra thật nhanh chữ “quyết” trong Truyện Kiều. Anh Kiều Nguyễn Chúc vốn nghiện thuốc nặng, thì bổ sung: Ai tìm được chữ “quyết” hay nhất còn được thưởng bao Điện Biên bao bạc.
Nguyễn An nổ ngay: Hạt mưa xá nghĩ phận hèn/Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân. Mọi người trầm trồ: Khá! Anh Kiều này liền cao hứng tiếp: Nàng rằng đã quyết một bề/Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần. Mọi người lại khen có hình tượng hay. Trưởng nhóm tủm tỉm vào cuộc, mình còn kéo nàng Kiều về với hôm nay, bụi đường Trường Sơn của lính xế ta trên đường là vậy mà nàng vẫn: Gương trong chẳng chút bụi trần/Một lời quyết hẳn muôn phần kính yêu. Mọi người phục lăn, phen này giải thưởng tất về tay nhóm trưởng, thì anh Kiều Nguyễn An xua tay: Không đúng! “Một lời ắt hẳn muôn phần kính yêu” cơ, cậu to gan thật, dám sửa văn cụ Nguyễn. Nộp phạt! Nam Hải cười trừ, lẳng lặng móc ra bao Điện Biên đặt lên bàn.
“Thông thái” vậy mà ba anh Kiều vẫn bị nhà văn Chu Văn lỡm, khi ông dẫn đoàn nghệ thuật tỉnh Nam Hà vào biểu diễn phục vụ bộ đội Trường Sơn. Nhà văn hỏi: Đố các vị, nàng Kiều con ai? Mọi người nhao nhao: Con ông bà Viên ngoại chứ con ai. Nhà văn lắc đầu: Kiều là con của con cọp. Nói rồi nhà văn ngâm nga: Hổ sinh chút phận thơ đào… là gì các cậu nhẩy?! Ông nhà văn tỉnh Nam tinh quái, chữ “hổ” là hổ thẹn, đánh đồng với con hổ(!)
Cũng có những câu đố tưởng đơn giản mà đến nay vẫn không có lời giải đáp thỏa đáng. Tham mưu phó vận tải Hoàng Anh Vũ trong một lần đã nêu câu hỏi: Cụ Nguyễn Du viết “Đầu lòng hai ả tố nga…” Vậy Thúy Kiều và Thúy Vân có phải chị em sinh đôi không?
Lẩy Kiều
Nguyễn Sắm, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn xe 102, mùa khô 1967-1968 đã lập một kỳ tích: trong 1 tháng vượt Đường 9 đưa vào các binh trạm phía Nam hơn 1 vạn tấn hàng. Để tả lúc nào anh cũng vội vã, một chiến sĩ “Kiều” liền lẩy một câu: Khẩn trương xuất phát kịp giờ/Xe anh Sắm vội chẳng chờ đợi ai. Từ đó tiểu đoàn trưởng xe có cái tên mới “Sắm vội”. Ở trọng điểm Văng Mu ai cũng biết trung úy Khương, bám đường, nhặt nhạnh thu về từng chi tiết còn dùng được của xe bị cháy, bị trúng bom để làm phụ tùng thay thế, có thời kỳ trong vòng nửa tháng anh đã dựng mới được 3-4 xe.
Đến một ngày anh có thêm cái hỗn danh “Khương và”, xem ra khó hiểu hơn “Sắm vội”. Nguyên do: cánh xế “Kiều” có dịp biểu dương anh: Chân đèo, dưới vực lân la/Âm thầm Khương nhặt được và bốn xe (“và” hiểu là “ba”). Từ đó mới có cái tên: Khương và. Còn một tình huống đến với anh lính xế nọ. Đêm khuya, bên đường bỗng có cô gái vẫy nón xin đi nhờ, mà xe đang chở đạn dược, vả lại không biết lai lịch cô ta ra sao. Cuối cùng anh xế không đành bỏ đi, cũng gật cho quá giang. Đơn vị biết, kiểm điểm. Cánh Kiều liền có thơ phụ họa: Người đâu gặp gỡ làm chi/Trăm năm biết có duyên gì hay không? Tiếng tơ động tấm lòng vàng/Nghe lời âu yếm dạ càng xiêu xiêu/Xưa nay kỷ luật đã nhiều/Nhưng thôi, chậc, cũng cứ liều đêm nay…
Có trường hợp…Kiều bịa. Một tối anh em đang tán Kiều, thì có ông Ngô Huy Biên-Tham mưu trưởng phòng không (sau này là thiếu tướng, chủ nhiệm Khoa Chiến dịch, Học viện Quốc phòng) vào, hỏi ngay: Các vị có biết nước nào không những tài-mệnh không ghét nhau mà còn vồ lấy nhau thắm thiết không? Biết là vị chủ nhiệm phòng không bịa chuyện, song mọi người vẫn bảo, nói thử coi. Ông Biên liền ngâm: Trăm năm trong cõi người Ngô/Chữ tài chữ mệnh khéo vồ lấy nhau. Mọi người được mẻ cười rung hầm, bảo ông bịa giỏi. Nhóm trưởng Nam Hải thì kết luận luôn: Bây giờ mới vỡ lẽ ra/Chính danh Kiều bịa ấy là Huy Biên.
Bói Kiều
Từ lâu việc bói Kiều khá phổ biến trong dân gian, nhiều khi mang mầu sắc mê tín dị đoan, còn với lính Trường Sơn, đây hoàn toàn là giải trí, thư giãn đầu óc trước khi làm nhiệm vụ. Họ cũng cầm quyển Kiều áp trước ngực và lầm rầm trong miệng: Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Gác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều; hôm nay ngày, tháng, năm, tín chủ tên…xin một quẻ. Thường thì các cô thanh niên xung phong hay nữ thông tin, quân y chưa chồng bói cầu duyên: sau này ra quân sẽ có một tấm chồng như ý; anh pháo thủ cao xạ bói cầu tài: xin bắn rơi chiếc máy bay thứ…trên đường Trường Sơn; anh lái xe bói cầu phúc cho đường thông, xe phóng vo vo; anh tiếp phẩm hậu cần bói cầu lộc, vào bản mua được nhiều rau, đậu về cải thiện cho đơn vị; anh công binh bói cầu may: hôm nay mở đường không dính bom, mìn…
Song có chuyện này thì tín chủ trúng phóc. Chả là, 4 cậu lính trẻ lập được chiến công, được gọi ra Bắc chuẩn bị học đại học, nhưng phải qua kỳ thi tuyển ở ngoài ấy, bèn đến nhóm Kiều xin một quẻ. Mắt lim dim, miệng lầm rầm, Truyện Kiều áp trước ngực, rồi mở ra. Họ reo lên: Chế khoa gặp hội trường văn/Vương Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày. Quả nhiên sau đó ra Bắc, 3 cậu đỗ đại học trong nước, 1 cậu xuất sắc được cử đi học nước ngoài.
Sau ngày thống nhất đất nước, ba anh Kiều không còn được ở gần nhau nữa. Họ đều thăng tiến. Anh Kiều Nguyễn An là Thiếu tướng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. Nhóm trưởng Nam Hải chuyển ngành là Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Anh Kiều Nguyễn Chúc, Đại tá, Cục trưởng Cục Quản lý xe máy. Riêng với anh Kiều “thăng tiến vừa vừa” này còn có một chuyện cũng vui không kém lẩy Kiều. Hôm đó Bộ Tư lệnh điểm binh, các khối “Tham-Chính- Hậu”đều phải đủ mặt. Nhìn thoáng hàng quân, không thấy Nguyễn Chúc đứng trên cùng ở khối tham mưu, thì Tư lệnh hô: Nguyễn Chúc ra đầu hàng! Dáng to cao, anh Kiều đang đứng hàng dưới hùng dũng bước ra phía trước, hô lại: Nguyễn Chúc thà chết không đầu hàng! Hàng quân đang im phắc, với cả Tư lệnh đều… phì cười.
“Ông trùm” Trường Sơn, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, sau này trong một bài viết, đã có nhận định về phong trào văn hóa mới thịnh hành nhiều năm trong đơn vị của ông, quân số có thời điểm đông tới hàng vạn người: “Nhóm phổ biến Truyện Kiều trên đỉnh Trường Sơn vào những năm tháng không quên đó, thực chất đã trở thành một loại hình sinh hoạt văn hóa, không quy mô đồ sộ nhưng sâu rộng, không ồn ào nhưng sâu lắng, nhẹ nhàng, hấp dẫn, lay động lòng người, động viên khí phách quyết chiến quyết thắng vì giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.”
Theo Phạm Công – Đại Đoàn Kết