(…) Cách hơn một tháng trước, vợ tôi đến thăm chị Khiêm lúc này đã ốm liệt giường. Ngoài cân đường biếu người ốm, tôi gửi biếu nhà thơ nửa lít rượu. Nhà thơ hỏi vợ tôi: “Thằng Phùng Quán chết rồi hay sao mà lâu nay nó không đến thăm tôi?,. Chị Khiêm đưa mắt lườm chồng, nói: “Đừng chấp lão ta làm gì… mồm miệng lúc nào cũng độc địa như thế…”. Vợ tôi kể lại chuyện này và có ý giận sự độc mồm độc miệng của ông. Nhưng tôi thì rớm nước mắt vì cảm động. Tôi thấy đằng sau lời rủa độc ấy là tình thương quý của ông đối với tôi – “Mình là cái con khỉ gì mà được nhà thơ Đoàn Phú Tứ thương quý làm vậy?”. Tôi thầm nghĩ thế và lòng xốn xang tình cảm biết ơn…

Bây giờ nhà thơ đã qua đời. Nhớ lại tất cả những chuyện đó, tôi càng buồn rầu hơn vì vô phương giúp đỡ gia đình ông trong cảnh tang gia cùng quẫn. Tôi lục lọi khắp nhà xem tìm được vật gì sớm mai đem bán. Nhưng cảnh nhà tôi cũng chẳng hơn gì cảnh nhà ông. Vật dụng có giá trị nhất trong nhà tôi là cái xe đạp mi-ni cũ nát, đem bán chưa chắc đã nổi hai chục nghìn.

Cái khó ló cái khôn. Trong đầu tôi chợt lóe lên “sáng kiến”: Nghe nói Đoàn Phú Tứ đã từng là đại biểu Quốc hội khóa I, vậy mình sẽ lên thẳng Quốc hội xin tiền làm ma cho ông. Sáng kiến có vẻ hay đấy, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, tôi thấy khó lòng thực hiện nổi. Tôi lấy tư cách gì để lên tận Quốc hội xin tiền cho ông? Tôi không phải là bà con ruột thịt, không phải họ hàng, cũng không phải là bạn của ông… Tôi không có chức danh gì trong các doàn thể văn học nghệ thuật… Xuất thân là một người hnh trinh sát của một trung đoàn thiện chiến, tôi thường bị kẹt vào những tình huống hiểm nguy tường chừng không lối thoát, nhưng cuối cùng vẫn thoát. Quân đội đã rèn giũa cho tôi từ thuở thiếu mên cái ý chí: hãy tìm cho ra một kẽ hở ở những chân tường kiên cố nhất, để chui qua.

***

Một giờ sáng, trằn trọc trên Chòi ngắm sóng, tôi đã tìm ra kẽ hở đó. Nhưng kẽ hở này là một hạ sách, vì nó vi phạm nghiêm trọng đạo lý con người và nhà văn: Nói dối. Nghĩ vậy, tôi cảm thấy chùn tay. Nhưng thời gian gấp quá rồì, chỉ còn một buổi sáng ngày mai… Tôi tự an ủi: Mục đích sẽ biện hộ cho phương tiện. Tôi bật đèn, tìm giấy bút và sáng tác một bức thư: 

“Kính gửi đồng chí Lê Quang Đạo, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Kính thưa đồng chí, tôi xin báo với đồng chí một tin buồn: ông Đoàn Phú Tứ, nhà thơ, nhà viểt kịch, nhà dịch thuật, và đồng thời là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thọ 80 tuổi, đã từ trần ngày hôm qua. Họa vô đơn chí. Vợ ông là chị Nguyễn Thị Khiêm vừa mất cách đây hai tháng. Sau ngày vợ mất, ông Đoàn Phú Tứ tìm gặp tôi và nói: “Mình cảm thấy như ngọn đèn đã cạn dầu, lụi bấc, chưa biết tắt lúc nào. Tám mươi tuổi rồi, chết không phải là điều đáng sợ, chỉ sợ một nỗi đến lúc nằm xuống, các con chẳng biết lấy gì để làm ma cho bố. Bởi vậy mình uỷ thác Phùng Quán một việc. Nếu mình nằm xuống, thì Quán hãy viết thư kêu ông Chủ tịch Quốc hội, trình bày hoàn cảnh gia đình mình, và chuyển lời mình đến với ông: “Nểu Quốc hội còn nhớ đến tình cũ nghĩa xưa, thì xin ông một cỗ áo quan và một chút tiền để mai táng”. Bây giờ ông Đoàn Phú Tứ đã nằm xuống. Tôi xin chuyển đến đồng chí lời uỷ thác của ông. Mong đồng chí lưu tâm giải quyết. Hai giờ chiều mai, gia đình ông Đoàn Phú Tứ sẽ đưa ông về Văn Điển. Nay kính thư, Phùng Quán”.

Trong cuộc đời làm văn của tôi, chưa bao giờ viết một đoạn văn nào mà tôi phải đắn đo, cẩn trọng đến như bức thư này. Tôi chép đi chép lại bức thư nhiều lần, cân nhắc từng chữ một, sửa chữa, thêm bớt.

Tôi chép lại bức thư với nét chữ nắn nót, đề địa chỉ người nhận, với dòng chữ trong ngoặc đơn: “Kính nhờ Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam chuyển”.

Đồng hồ chỉ 3 giờ sáng.

Tôi đến Trụ sở Hội Nhà văn vào đầu giờ làm việc May mắn nhà văn Xuân Thiều cũng vừa đến. Tôi trao bức thư và nói gần như năn nỉ: “Anh cố gắng chuyển thư đến tay anh Đạo vào buổi sáng nay, anh ấy mới giải quyết kịp”. Xuân Thiều xem bức thư rồi trao lại cho tôi, nói: “Không ăn thua đâu Quán. Chuyện tiền nong đâu có thể giải quyết một cách chóng vánh, dễ dàng như vậy?”.

Tôi buột miệng đọc câu thơ của Uytman: “Dù cho ai thất vọng về người – Ta, ta vẫn đời đời tin tưởng” Tôi nói: “Đã thế tôi sẽ lên thẳng Quốc hội gặp anh Đạo”. Tôi dắt xe đến thẳng chòi gác, cố lấy dáng đi thật chững chạc. 

Anh công an gác trước Trụ sở Quốc hội (33 Ngô Quyền) bước ra hỏi:

– Cụ đến có việc gì ạ?

– Báo cáo đồng chí, tôi muốn gặp Chủ tịch Lê Quang Đạo.

– Chắc cụ muốn đưa đơn kiện phải không?

Tôi đoán anh ta cho tôi là một lão nông từ làng quê lên. Mà các cụ ở nông thôn đã tìm lên đến tận Quốc hội thì chỉ có mỗi việc là đệ đơn kháng cáo những chuyện bê bối của chính quyền địa phương.

– Không, đồng chí ạ. Tôi không có chuyện kiện cáo gì đâu. Chỉ cần gặp ông Chủ tịch để đề đạt một công việc cần thiết.

– Thế thì mời cụ dựng xe đằng kia rồi vào gặp bác thường trực.

Ông già thường trực sau khi nghe tôi trình bày vắn tắt, liền trá lời với giọng Quảng Trị đặc sệt: 

– Ông Lê Quang Đạo và ông Vũ Mão mới về Hải Phòng chiều qua để kiểm tra việc chuẩn bị bầu cử hội đồng nhân dân các cấp…

“Thế thì không ăn thua gì rồi anh Tứ ơi… Anh đen quá, đen cho đến chết. Anh dịch “Đỏ và đen” mà số anh chỉ nhận được toàn phần đen… Tôi đã hết sức với anh, nhưng số phận đã được an bài… Mong vong linh anh đừng giận tôi”.

Tôi đưa phong thư và bộ “Tuổi thơ dữ dội”, nhờ ông thường trực chuyển giúp cho Chủ tịch Lê Quang Đạo ông ta lên mục kỉnh, đọc tên tôi trên phong bì thư. Ông ngẩng mặt lên hỏi: “Có phải Phùng Quán “Vượt Côn Đảo” không?”

– Đúng rồi…

– Dạo ni nom già hớm hí. Cậu quên tớ rồi à?

Tôi chăm chú nhìn ông, lòng lấy làm lạ: “Ở một nơi uy nghiêm như thế này sao lại nảy nòi ra một anh quen biết hạng người như mình?”

– Thật tình mình không nhớ được… Tôi bối rối nói.

– Vô đây uống chén nước đã, rồi ta nhắc cho mà nhớ. Cậu là lính “Trăm lẻ một”, tớ là lính “Chín lăm”. Cậu có nhớ trận phục kích đoàn công-voa gần đồn Hòa Lục Nam, chiến dịch Phan Đình Phùng năm 1952 không?

– Có, có, nhớ rồi…

– Lúc thu chiến lợi phẩm, cậu với tớ giành nhau khẩu ga-răng, cậu đạp tớ một cú giữa bụng, tớ nện cậu một cú vô quai hàm, nhớ chưa?

– Nhớ rồi, nhớ rồi… Mà ngày xưa tớ nom cậu to con hơn…

– Xí… già thì người phải teo tóp lại như trái mướp khô… Rứa cậu gặp ông Đạo có việc chi?

Tôi trình bày tóm tắt câu chuyện và nói: “Thế mà ông Đạo lại đi vắng…, có hết hơi không?…

– Cậu cứ ngồi đó, chưa chi dã chủ bại. Tớ thấy hồi còn làm lính “Trăm lẻ một” cậu coi bộ cứng cổ hơn:.. Để tớ gọi điện thoại cho ông Phó Tổng biên tập báo “Người đại biểu nhân dân”, hỏi ý kiến ông ta, liệu có giải quyết được không?

Người chiến hữu cũ của tôi gọi điện thoại, quay lại nhìn tôi gật gật: “Ông ấy mời cậu lên gặp. Điệu ni là có hy vọng đấy. Chừ cậu đi lên tầng gác hai, thấy gian phòng ngoài cửa có tấm biển đề Tổng biên tập. Ông ta đang ngồi ở đó”.

Phó Tổng biên tập báo “Người đại biểu nhân dân” kém tôi vài tuổi, tên là Thọ. Anh Thọ không những bỉết Đoàn Phú Tứ mà còn biết cả chuyện ông là người đầu tiên đã ra tay chống tệ nạn tham nhũng, trong vụ Trần Dụ Châu và Lê Sĩ Cửu, từ thời chiến khu Việt Bắc.

Đọc xong bức thư gứi đồng chí Lê Quang Đạo, anh Thọ nói: “Đây không phải là chuyện nghĩa cử mà còn liên quan đến ảnh hưởng chính trị… Anh Phùng Quán ngồi đây chờ tôi mười phút, tôi chạy đi mời một số cán bộ chủ chốt của cơ quan. Chúng ta sẽ cùng họp bàn cách giải quyết trong khi anh Đạo đi vắng”. Lát sau tôi được mời vào phòng họp.

Ngoài anh Thọ có Vụ trưởng Vụ Tài chính, Vụ trưởng Vụ Chính sách, một chuyên viên đặc trách những việc đột xuất của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Bức thư gửi lên đồng chí Lê Quang Đạo được anh Thọ đọc to lên cho tất cả cùng nghe. Vụ trưởng Vụ Chính sách trạc năm mươi tuổi, người cao gầy, ánh mắt sắc sảo, nói: “Trước khi bàn bạc cách giải quyết, chúng ta phải cần kiểm tra xem ông Đoàn Phú Tứ có phải là đại biểu Quốc hội không đã…” Ông đứng lên ra khỏi phòng họp một lúc rồi trở vào, tay cầm cuốn sổ dày cộp, bìa bọc vải có chữ mạ vàng. Ông đặt cuốn sổ trước mặt tôi, giới thiệu: “Đây là Kỷ yếu danh sách đại biểu Quốc hội từ khóa I đến nay. Tên đại biểu được xếp theo vần A, B, C. Đoàn Phú Tứ, ta tra vần T. Ông lật giở kỷ yếu tìm vần T. Chúng tôi cùng chụm đầu trên ba trang vần T. Không có tên Đoàn Phú Tứ. Tôi tái mặt… Dò tìm lại lần nữa. Có tên Nguyễn Đình Thi, Phan Tứ… nhưng Đoàn Phú Tứ thì không. Tôi hoảng sợ thật sự. Thật ra, việc Đoàn Phú Tứ là đại biểu Quốc hội khóa I thì tôi cũng chỉ nghe nói vậy thôi, chứ chưa bao giờ hỏi thẳng ông… Nếu Đoàn Phú Tứ không phải là đại biểu Quốc hội thì những con người sắc sảo này sẽ nhận ra ngay sự gian dối của bức thư. Như vậy thì tôi đã tự chuốc lấy một hoàn cảnh hết sức lố bịch. Tôi chợt nghĩ: vẫn còn một tia hy vọng. Tôi nói: “Nhưng nhà thơ Đoàn Phú Tứ chi là đại biểu có mấy năm, sau đó ông bỏ thành…” Vụ trưởng Chính sách nói: “Đây là Kỷ yếu. Trong số này có cả tên Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh”.

Lúc này tôi chỉ muốn chui xuống đất. Tôi lắp bắp, ấp úng: “Việc này tôi nghe các anh ở Hội Nhà văn nói chắc lắm. Có lẽ để tôi về hỏi lại anh Nguyễn Đình Thi xem sao. Anh Thi cũng là đại biểu Quốc hội khóa I…”. Miệng nói, chân tôi dợm đứng lên, cốt làm sao rút được ra nhanh khỏi gian phòng họp. Bất chợt tôi nhìn thấy trong sổ Kỷ yếu có mục: Những đại biểu Quốc hội đào nhiệm. Tôi hồi hộp nói: “Thử tra cứu mục này xem có tên ông Tứ không?”

Ngón tay trỏ tôi lần dọc theo các hàng tên… “Đoàn Phú Tứ đây rồi!” – Tôi nói gần như reo. Vụ trưởng Chính sách xem xét lại lần nữa, rồi gật đầu: “Qua khâu kiểm tra, ông Đoàn Phú Tứ đúng là có danh sách trong đại biểu Quốc hội. Nhưng ông đã đào nhiệm từ năm 1951. Chúng tôi không còn trách nhiệm gì về ông, nên không có chính sách cấp tiền làm tang lễ cho ông…”

– Chính sách đất nước quý trọng nhân tài – Tôi nóng nảy ngắt lời ông. – Tuy ông đào nhiệm, nhưng trước đó ông là nhà thơ đầu tiên đứng lên chống tệ tham nhũng. Và ông đã chống một cách thật can đảm. Ông đã vạch mặt Trần Dụ Châu, đại tá Cục trưởng Cục quân nhu phè phỡn trên xương máu chiến sĩ. Trần Dụ Châu đã bị xử bắn như chúng ta đã biết…

Cảm thấy chừng ấy lý lẽ cũng chưa đủ thuyết phục họ, tôi liền vận dụng đến thơ. Tôi nói: “Một nhà thơ cộng sản người Đức tên là Bectôn Brếch, từng viết những câu thơ đầy sức giáo huấn:

Mộ~ người đấu tranh một giờ là một người tốt. Một người đấu tranh nhiều ngày là một người tốt hơn

Một người đấu tranh nhiều năm là một người tốt hơn nữa

Một người đấu tranh suốt đời thì rất hiếm…

Thật ra đoạn thơ này còn có câu cuối cùng:

“Những người đó mới thật cần thiết cho chúng ta”, nhưng tôi đã cắt bỏ câu này để cho việc trích dẫn thơ có lợi cho mục đích của tôi. Tôi nói tiếp: “Như vậy nhà thơ Đoàn Phú Tứ là “một người tốt hơn nữa”, vì ông đã đấu tranh nhiều năm”.

– Thơ hay quá! Mọi người trầm trồ, đề nghị anh đọc lại cho chúng tôi chép.

Tất cả cùng mở sổ tay, rút bút bi. Tôi đọc chậm rãi từng câu theo kiểu thầy giáo đọc chính tả cho học sinh… Vụ trưởng Tài vụ hỏi:

– Đồng chí nhà thơ cộng sản này là Đông Đức hay Tây Đức?

– Cộng hòa dân chủ Đức, người đã sáng lập ra Đoàn kịch nói quốc gia Béc-lanh.

Tôi không ngờ thơ lại có sức mạnh thuyết phục đến như thế. Vụ trưởng Vụ Chính sách hăng hái nói:

– Đúng, chúng ta cần phải gửi tiền đến để góp phần tổ chức tang lễ cho nhà thơ, mặc dầu chưa có chính sách về những trường hợp như thế này. Chúng ta cần phải linh động chính sách.

Vụ trưởng Tài vụ có vẻ nghĩ ngợi lung lắm, ông nói: “Nhưng ký duyệt những khoản tiền đột xuất như thế này thì phải đồng chí Lê Quang Đạo, hoặc đồng chí Vũ Mão… Mà bây giờ cả hai đồng chí đều đi vắng…”.

Anh Thọ nói: “Nếu chưa kịp gửi tiền thì chúng ta có thể gửi một vòng hoa đến viếng”. Vụ trưởng Tài vụ gật đầu: “Việc mua vòng hoa thì quyền hạn tôi có thể giảỉ quyết được”. Nhìn lên đồng hồ đã 11 giờ, ông đứng lên: “Các đồng chí cứ ngồi đây nói chuyện. Tôi cho người đi đặt vòng hoa thì mới kịp”.

Vụ trưởng Chính sách băn khoăn: “Không biết nên đề lên vòng hoa như thế nào… Vì ông Tứ không còn là đại biểu Quốc hội nữa…”. Tôi nói: “Theo tôi có thể đề: “Kính viếng hương hồn nhà thơ Đoàn Phú Tứ – Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước. Quốc hội gửi vòng hoa viếng một nhà thơ nổi tiếng, việc này vừa hợp với đạo lý vừa có ảnh hưởng chính trị tốt không những chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài”. Mọi người đều tán thành cách giải quyết của tôi. Anh Thọ gọi điện cho họa sĩ phụ trách “mi” của báo “Người đại biểu nhân dân”, để yêu cầu tạm xếp công việc “mi”, viết ngay một “băng-rôn” vải đỏ chữ vàng với nội dung trên.

Vụ trưởng chính sách hỏi tôi địa chỉ cua nhà thơ. Tôi nói: “Nhà ông ở bãi An Dương, hơi khó tìm. Tôi sẽ làm người dẫn đường. Đúng 1g30 tôi sẽ có mặt ở đây để cùng di với các đồng chí”.

Đồng hồ chỉ 12 giờ. Tôi thấy mệt lả và đói mềm người. Nhưng tôi tính toán: nếu trở về nhà ăn cơm rồi đạp xe đến thì không kịp mất. Tôi quyết định ở lại đây buổi trưa. Tôi ghé vào phòng thường trực ngồi chơi với người chỉến hữu cũ của sư đoàn, hút thuốc lào và ôn lại những kỷ niệm chiến trường để dịu bớt cơn đói.

Đúng 1g30, chiếc Vonga đen choáng lộn mang biển số Văn phòng Quốc hội, chở một vòng hoa lớn, vắt chéo tấm băng-rôn đỏ nổi bật dòng chữ nhũ vàng do một họa sĩ trang trí viết: “Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước – Kính viếng hương hồn nhà thơ nổi tiếng Đoàn Phú Tứ” chạy về phía bãi An Dương.

(…) Nhiều năm tháng đã trôi qua. Mộ nhà thơ Đoàn Phú Tứ đã được các con cải táng… Nhưng lòng tôi sao vẫn ray rứt mãi không yên. Trong sự việc này, tôi đã phạm hai lần nói dối. Càng luống tuổi, càng sống, càng chiêm nghiệm tôi càng không tin rằng “mục đích có thể biện hộ cho phương tiện”. Trên khắp thế gian, người ta đã phạm biết bao nhiêu tội ác chỉ vì cái lập luận đáng sợ này. Những lỗi lầm mà tôi đã phạm phải trong công chuyện nhà thơ Đoàn Phú Tứ, có nguồn gốc sâu xa của nó. Năm tôi mười tám tuổi, là lính trinh sát của Trung đoàn 101. Tôi được cử vào đội bảo vệ một đoàn văn nghệ sĩ từ vùng tự do Liên khu 4, vào Thừa Thiên đi thực tế chiến trường. Trong đoàn này có nhiều nghệ sĩ nổi tiếng: Thanh Tịnh, Phạm Duy, Bửu Tiến…

Đội bảo vệ chúng tôi có 8 người, vừa làm công tác bảo vệ, vừa dẫn chương trình, trinh sát. Trước khi lên đường nhận công tác, Chính uỷ Trung đoàn Trần Quý Hai đến gặp chúng tôi, chỉ thị: “Nhân tài là vốn quý của đất nước. Một đất nước không có nhân tài thì đất nước đó sẽ lụn bại. Bởi vậy các đồng chí phải bảo vệ văn nghệ sĩ như bảo vệ con ngươi giũa mắt mình”. Chúng tôi đã thi hành chỉ thị của Chính uỷ hết sức nghiêm chỉnh. Ngày đó chiến trường Thừa Thiên bom đạn đầy trời, giặc càn quét ìiên miên. Suốt hai tháng, đạn giặc không đụng đến được cái lông chân đoàn văn nghệ sĩ. Đội bảo vệ chúng tôi hy sinh mất hết hai chiến sĩ, còn tôi bị thương ở cẳng chân, suýt bị cưa phía trên đầu gối.

Do được ở gần đoàn văn nghệ sĩ, cánh lính bảo vệ chúng tôi cũng tập tọng bắt chước các anh, làm thơ. Tôi cũng có làm được vài câu nôm na như sau:

“Nếu các anh bị bốn bề vây súng giặc – Chúng tôi sẽ xông ra lấy ngực che đạn cho các anh…”.

Do đó về sau này, mỗi lần nhìn thấy các anh văn nghệ sĩ có tên tuổi, có tài năng phải sống khổ cực như nhà thơ Đoàn Phú Tứ, tôi lại chợt nhớ đến lời dạy của Chính uỷ năm nào… Khốn nỗi, bây giờ muốn che chở, bảo vệ nhân tài, không còn cần đến ngực, đến máu (thứ chúng tôi có sẵn) như ngày ở chiến trường. Mà cần tiền – thứ chúng tôi hoàn toàn không có – Bởi vậy, tôi phải sứ dụng đòn liều mạng, mà trong thâm tâm tôi biết đó là một biện pháp rất tồi tệ, không thể nào tha thứ được. Tôi coi thiên hồi ức này là sự tạ tội trước hương hồn nhà thơ Đoàn Phú Tứ – vì nội dung điều nóỉ dối của tôi không phù hợp với tính cách con người ông; đồng thời đây cũng là lời tự thú với đồng chí Lê Quang Đạo mà tôi hết lòng kính trọng, với các anh ở cơ quan Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước, và với độc giả!

Tôi trông chờ vào sự phán xét dù nghiêm khắc đến đâu. Tôi hy vọng có như vậy tôi mới được cứu rỗi.

Hồ Tây – 1993 – Phùng Quán