Thương binh ngoài chính sách
Rõ ràng sẹo đạn đầy thân
Viên bi chứng tích trong chân vẫn còn
Đã từng bao trận hứng bom
Tưởng nằm lại Cánh Đồng Chum không về
Ra đi giữ trọn lời thề
Hồ sơ đời lính ngày về lại rơi
Để rồi khắp chốn muôn nơi
Xin người chứng nhận, xin lời xác minh
Vết thương đủ lí, đủ tình
Mà không chứng nổi cho mình nỗi đau
Giờ hơn bốn chục năm sau
Chờ mong, ngóng đợi… quá lâu thành thường
Mỗi lần giời đất ẩm ương
Viên bi lại nhắc mình thương lấy mình
Mỗi năm, tháng Bảy nghĩa tình
Người như cây khuất lặng thinh rừng già
Lạt Thuồng, đồng đội đã xa
Cánh Đồng Chum biết…
nhưng mà ai tin?
———
Viết tặng anh Nguyễn Văn Mừng, thôn Bãi Cả, xã Bình Sơn, huyện Lục Nam, Bắc Giang – nguyên chiến sĩ Trung đoàn 866 quân tình nguyện Việt Nam giúp Lào, bị thương năm 1971 tại Xiêng Khoảng.
Bến sông trưa
Bến sông bấy giờ ở quãng rẽ Vầy Nưa(1)
Tôi trên đường lên vùng cao dạy chữ
Trưa ấy nắng mật vàng loang đổ
Gió thật hiền sông hát khúc bình yên
Êm ả bờ lau vắng ngắt bóng thuyền
Tôi búi tóc khỏa vào sông tắm mát
Nước rười rượi quấn lấy tôi dào dạt
Tôi mê trôi trong sóng vỗ dịu dàng
Sông và người hòa khát vọng mênh mang
Miền bờ bãi xanh chân trời góc bể
Đêm ấy tôi về Mó Nẻ
Bản người Dao trên đỉnh đại ngàn
Bên ngọn đèn dầu tôi viết đầy trang
Kể chuyện bến sông với bạn trai ngoài mặt trận
Bạn trai nhận thư thế mà hờn giận
Với bến sông cát vắng trưa lành
Trách tôi liều hồn hậu trước mong manh
Lo ngọn gió thổi bạc ngàn lau trắng
Tôi tin yêu hứa thầm trong sâu thẳm
Gìn giữ mình như thuyền đợi bến sông
Nhưng bến sông cải chưa kịp hóa ngồng
Đã chìm xuống lòng sâu hồ thủy điện
Chìm xuống gương mặt tôi cùng trưa nắng vàng thánh thiện
Cả hờn dỗi của anh sim tím triền đồi
Bây giờ chuyện cũ dòng trôi
Chuyện chìm dưới sóng tôi ngoi ngọn triều
Biết người hờn giận là yêu
Thì người đã hóa mây chiều Trường Sơn
Biết sông quãng tắm là nguồn
Thì sông đã hóa nỗi buồn chiêm bao.
———
1. Xã Vầy Nưa thuộc huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình.
Nguyễn Thị Mai
Văn nghệ Quân đội
Phạm Thuý Quỳnh đưa bài