Cái mới mà thơ Việt cần hướng tới là những giá trị văn hóa Việt còn ẩn chứa đâu đó trong đời sống, mà bấy lâu nay do những yếu tố khách quan và chủ quan chúng ta chưa có điều kiện khai phá, chứ không phải là ở những câu thơ diễn đạt tùy tiện, chỉ cốt để khoe chữ, lòe thiên hạ về kiến thức, nhưng khi đọc chẳng hề thấy có bất kỳ một chút rung động nào.


“Lạc đạo tùy duyên”

“Thi Vân Yên Tử” của Giáo sư- Tiến sĩ Hoàng Quang Thuận là một tập thơ gồm hai phần riêng biệt đã được xuất bản trước đó là “Thi Vân Yên Tử” (gồm 63 bài) và “Ngọa Vân Yên Tử” (gồm 80 bài). Có thể nói, đây là tập thơ chỉ viết về phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ và Phật tích của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Trong toàn bộ tập thơ có 86 bài thất ngôn tứ tuyệt, 1 bài lục ngôn (“Vua Phật”- tr 75), 49 bài thất ngôn bát cú, 6 bài thất ngôn thập nhị cú và 1 bài ngũ ngôn (“Ân hận”- tr 69). Bài ngũ ngôn này dường hơi xa chủ đề so với 142 bài thơ còn lại. Bài thơ miêu tả việc đoàn Tăng ni, Phật tử trên đường đến chùa Giải Oan, gặp người dân bắt được con cầy hương có đôi mắt sáng long lanh, nhưng đoàn du khách đã không mua để phóng sinh cho nó. Sau đấy về nhà cứ “ân hận” mãi, không sao ngủ được.

Sự ưu trội của các bài thất ngôn tứ tuyệt cho chúng ta thấy rõ một điều là tính khẩn thiết của các chủ đề cần phải đề cập đến đã không cho phép tác giả kéo dài thời lượng mỗi bài. Đối với thể loại Đường luật, dù chính thể hay biến thể, phần lớn đều ngắn (4 hoặc 8 câu), nhưng đòi hỏi trước hết là đảm bảo được cấu trúc: đề, thực, luận, kết và phải hàm súc, nói được những điều cần phải nói và quan trọng hơn là cần phải chuyển tải được những điều mà chủ thể sáng tạo gửi gắm thi hữu trong mỗi bài thơ.

Ở vào thời buổi mà người ta nhao nhao đi tìm hướng đi mới cho thi ca Việt, thay vì điều đó, chất thiền trong con người Hoàng Quang Thuận cứ “ào ào tuôn chảy” như là sự kế nghiệp các bậc chân tu xưa. Cảm hứng tuôn trào từ chốn Thiền định Yên Tử đã khiến vị Phật tử “tân binh” này chỉ còn biết chép lại trên giấy, mà không mấy bận tâm đến việc thay đổi thể tạng, định hình hài, mũ mão cho thơ.

Đối với Hoàng Quang Thuận không có ma quỷ nào đưa lối, dẫn đường cả, mà chỉ có Thần, Phật phù hộ độ trì từ khi ông phát tâm nguyện làm một đệ tử trung thành nơi cửa Thiền, để rồi từ đấy những vần thơ thấm đẫm chất linh nghiệm báo ứng của tiền nhân hiện về.

Xét về khía cạnh chủ đề ta có thể thấy “Thi Vân Yên Tử” khá phong phú. Cụ thể sự phân chia các chủ đề trong “Thi Vân Yên Tử” như sau: Các bài thơ nói về Vua quan nhà Trần gồm có 12 bài, Phật tử 22 bài, Phật tích 42 bài, địa danh 47 bài, chim thú 5 bài, cây cối 2 bài và các chủ đề khác 13 bài. Tổng số 143 bài.

Như vậy có thể thấy hai chủ đề về Phật tích và địa danh chiếm ưu thế chi phối quá trình sáng tạo của nhà thơ, 89 bài, chiếm khoảng 2/3 tập thơ. Trong quá trình viết và hoàn thành tập thơ, dù diễn ra trong một thời gian không phải là dài, nhưng dường như nhà thơ Hoàng Quang Thuận không thể nào cưỡng nổi được mãnh lực từ những “dấu xưa”, nơi Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã về đây thiền định, lập nên Thiền phái Trúc Lâm và đã viên tịch về cõi Niết Bàn cũng chính tại nơi đây.

Hữu xạ tự nhiên hương

“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên” là câu mở đầu bài thơ “Cư trần lạc đạo phú” (2) của Đức Vua, Phật Hoàng Trần Nhân Tông làm cách đây hơn 700 năm còn để lại đến ngày hôm nay cho hậu thế: “Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo/ Đói thì ăn, mệt thì ngủ/ Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác/ Đối diện với cảnh mà vô tâm, thì không cần hỏi thiền nữa”.

Có thể nói, đây là bài thơ nói rõ quan điểm của Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông về đạo Phật cũng như việc tu hành đối với Tăng ni, Phật tử. Hơn ai hết, Phật Hoàng Trần Nhân Tông quan niệm đạo Phật tồn tại như một lẽ tự nhiên. Phật có ở mọi nơi, từ cây cối, trăng hoa, núi non, sông nước,… mọi lúc, bất luận là sáng, trưa, chiều, tôi hay ban đêm,… trong bao la vũ trụ này đều có Phật cả. Chỉ có điều tâm người đủ tịnh, lòng người đủ sáng để nhận ra Phật hay không. Phật ở ngay trong chính lòng ta. Phật chuộng tâm hơn chuộng tính và tài, chuộng lẽ tự nhiên hơn sự gò ép. Đối với con người ta “đói thì ăn, mệt thì ngủ”, đấy là Phật. Phật chủ trương sống trên cõi phàm trần này, vốn có nhiều nhiễu tặc, trắc ẩn, nhưng người có tâm thì phải biết “tùy duyên” phận mà vui với đạo, với đời “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên” là như thế. Nếu một người đứng trước cảnh vật và cuộc đời mà không động lòng trắc ẩn, “vô tâm” thì đừng bao giờ tra vấn “thiền” ở đâu.

Theo tôi biết, hai tập thơ “Hoa Lư thi tập”“Thi Vân Yên Tử” được in và tái bản bốn lần bằng tiếng Việt và tam ngữ Việt- Pháp- Anh với số lượng in lên đến 25.000 bản và đã được phát hành trong hơn chục năm qua. Riêng “Hoa Lư thi tập” cũng đã được NXB Giáo dục in 8.000 cuốn và được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp. Nhà thơ Hoàng Quang Thuận cũng đã làm đầy đủ hồ sơ hai tập thơ và dịch ra tiếng Anh gửi tham dự Giải Nobel văn học.

Còn Giáo sư Hoàng Hữu Đán đã bỏ ra hai tháng ròng say mê ngồi dịch thơ “Thi Vân Yên Tử” ra tiếng Pháp. Dù tuổi cao, sức đã yếu, nhưng Giáo sư dường như không cưỡng lại được chất thiền trong hai tập thơ trên. Ông còn bảo: “Tôi ăn Tết năm hổ bằng “Thi Vân Yên Tử”.

Ông Phạm Khắc Lãm, Nguyên Tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam đã tức cảnh sinh tình: “Tôi tưởng theo anh thăm Yên Tử/ Nào ngờ lạc bước chốn thi vân/ Hoàng Quang cửa Phật soi câu chữ/ Thuận dòng rửa sạch chốn bụi trần”. Cụ già Trung Nghĩa- 82 tuổi cho rằng “Thi Vân Yên Tử” bừng soi sáng- mở rộng hồn tôi với đất trời”,… Đến nay hiện đã có hàng chục tờ báo ở Trung ương và địa phương, từ báo Nhân Dân, Hà Nội mới, Sài Gòn Giải phóng đến các báo Hạ Long, Quảng Ninh, Thể thao- Văn hóa… đều đã có bài đăng tải về “hiện tượng thơ Hoàng Quang Thuận”. Thậm chí có người còn cho rằng: “Giữa thời buổi thơ in ra nhan nhản, chủ yếu xoay quanh đề tài tình yêu hoặc co vào suy tưởng chiêm nghiệm cá nhân, đôi khi rối mù tắc tị…thì “Thi Vân Yên Tử” và “Ngọa Vân Yên Tử” như một áng mây lành, thoát tục, trong trẻo đến lạ lùng dắt người đọc vào chốn Bồng Lai, rũ bỏ bụi trần trở về với bản ngã thiện tâm trong mỗi con người,…” (3)

Cũng cần phải nói rằng tập thơ đã có tiếng vang đến nhiều nước trên thế giới như: Chánh văn phòng phủ Tổng thống nước Cộng hoà Pháp L. Heritier thay mặt ngài Tổng thống Jacques Chirac phúc đáp tác giả “Xin ông hãy tin rằng ngài Tổng thống đã xem và thưởng thức những bài thơ hay và rất cảm xúc đó” (Thư Pari 20-8-1998). Bộ trưởng văn hoá và Thông Tin Pháp Traumanm “Những bài thơ rất hay được viết từ cảm hứng ở vùng Yên Tử đã làm tôi say đắm…Tập thơ ấy là bằng chứng mối quan hệ trao đổi văn hoá giữa hai nước chúng ta” (Thư Pari ngày 20-8-1998). Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã đọc tập thơ và gửi thư tay trân trọng cảm ơn tác giả. Thư ký hoàng cung Thụy Điển Kung L. Hovstaterna “Chúng tôi đánh giá cao sự cao siêu sâu sắc về những vần thơ của ông” (Thư Stockholm ngày 3-3-2000)…

Tất cả những điều ấy nói lên một thực tế là trong thực trạng văn hóa đọc hiện nay, nhất là đối với thơ, không ít người cho rằng đang “xuống cấp” trầm trọng rất đáng báo động, nhưng nếu nhìn vào tổng số bản in và phát hành của “Hoa Lư thi tập” “Thi Vân Yên Tử” của nhà thơ Hoàng Quang Thuận thì có lẽ tình hình lại không đến mức phải bi quan như vậy. Vì chỉ trong vòng khoảng 10 năm, tập thơ được in và tái bản tới bốn năm lần, mỗi lần hàng ngàn cuốn, rồi được làm thành độc bản giả da,… thế thì đâu đến nỗi ế ẩm. Hơn thế, cả hai tập thơ đều được những người lớn tuổi, các Tăng ni, Phật tử khắp cả nước đón nhận rất trân trọng. Đặc biệt cả những các quan chức cấp cao, Tổng thống Mỹ và Pháp và Thư ký Hoàng cung Thụy Điển đều đã đọc và có thư cám ơn kèm theo nhận xét, thì làm sao có thể nói thơ “ế” được. Thậm chí nhà thơ Hoàng Quang Thuận, trước sự động viên cổ vũ của bạn bè, ông đã mạnh dạn gửi hai tập thơ của mình đi tham dự xét giải Nobel văn học, một giải danh giá nhất hành tinh. Dù có được giải hay không, điều ấy chưa hẳn đã quan trọng bằng việc hai tập thơ đã là sách gối đầu giường của nhiều bạn đọc hôm nay và mai sau, đặc biệt đối với những ai yêu thích dòng thơ Thiền với những trải nghiệm tâm linh cực kỳ thú vị.

Qua “hiện tượng thơ Hoàng Quang Thuận”, có lẽ tất cả chúng ta, nhất là độc giả yêu thích thơ ca, các nhà lý luận, phê bình thơ cần thiết phải nhìn nhận lại khi đánh giá thực trạng thơ Việt hôm nay. Ngay trên đất Việt và đối với người Việt, hiện chúng ta còn quá ít những nhà thơ đi theo khuynh hướng Thiền mà Hoàng Quang Thuận đã làm, đem đến cho độc giả của mình những giá trị tâm linh thực thụ, một phẩm chất ẩn tàng trong tâm thức văn hóa Việt, thay vì mãi đi kiếm tìm ở đâu đó và chạy theo những cái không phải là của mình. Chính Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã từng dạy: “Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác” rồi đó sao.

Theo tôi, Hoàng Quang Thuận đã khai phá một hướng đi mới cho thơ Việt. Xin chúc ông gặt hái được nhiều thành công hơn nữa trong nghiệp chân tu và chân thơ của mình./.

Hà Nội, 1/8/2012

Chú thích

(1). Thi Vân Yên Tử. Tập thơ của Hoàng Quang Thuận, NXB Giáo dục, H, 2010

(2). Xem: vi.wikipedia.org

(3). Thái Doãn Hiểu – phongdiep.net

Nguồn: Vanvn.net

Exit mobile version