Trường ca biển của Hữu Thỉnh – Nxb Quân đội nhân dân, 2004.

Trước khi nói đến chất dân gian, dân ca thấm đẫm với những ưu điểm trong Sức bền của đất, ta hãy nghe nhà thơ Hữu Thỉnh có đôi lời phi lộ ở đầu sách. Lời tác giả: Trường ca này tôi viết sau phút đón giao thừa Tết Ất Mão 1975, tại một tiểu đoàn xe tăng, Lữ đoàn xe tăng 273 anh hùng. Lúc đó, tiểu đoàn đang trong tư thế tấn công giải phóng thị xã Công Tum trong chiến dịch Tây Nguyên 1975. Tôi viết một mạch hết đêm giao thừa, cả ngày mồng một và đến quá nửa đêm hôm ấy thì xong. Tôi chép nó trong sổ tay và mãi đến khi kết thúc chiến tranh (30/4/1975) mới giở ra xem lại và gửi cuộc thi thơ 1975- 1976 của Tuần báo văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam. May mắn thay, Sức bền của đất Chuyến đò đêm giáp ranh đã vinh dự được trao giải A của cuộc thi này.
Qua lời giải thích trên, ta thấy Sức bền của đất được viết rất nhanh. Với 5 chương (không có tựa đề ở mỗi chương), tất cả có 530 câu thơ, chương 2 dài nhất (251 câu) mà chỉ viết một ngày, một đêm, thêm nửa đêm nữa là xong (Tất nhiên sau này, trước khi in sách ông có sửa chữa và viết thêm), nhưng như thế cũng có thể nói rằng, thơ đã chưng cất sẵn trong ông như đập nước đang trữ nước và chỉ chờ khơi một cái là tuôn trào.
Thực vậy:
Anh nhớ em như cơn mưa tích nước
Cứ chực òa chỉ một cớ không đâu
Đất. Ở đâu cũng đất. Lữ đoàn xe tăng 273 trong tư thế tấn công là đi trên đất. Nhưng sức bền của nó còn tiềm ẩn vững chãi oai hùng là ở hướng khác nữa.
Mở đầu trường ca, tác giả viết:
Đom đóm bay ra hoa gạo đỏ
Mẹ ở nhà đã cất áo bông?
Mẹ có ra bờ sông
Qua bến đò tiễn con dạo trước?
Đường xuống bến có mười sáu bậc
Mẹ nhớ thương đã bạc mái đầu…
Và, chỉ cách đó 19 câu, theo mạch vỉa cảm xúc này, tác giả khắc họa rất rõ:
Mẹ là người chúng con thương nhớ nhất
Đất nước ngày có giặc
Mẹ vẫn đỏ miếng trầu
Ấm một vùng tin cậy phía sau
Vùng tin cậy phía sau ấy chính là hậu phương hùng hậu! Là mẹ, là em, là ruộng nương châu thổ. Bởi vậy, trong chương một (66 câu), đã có 11 câu thơ nói về mẹ.
Ở trại sáng tác Tam Đảo 2010, Hữu Thỉnh lên thăm và tổng kết trại, ông nói vui: Đây là vùng đất rừng quê tôi, lúc nhỏ tôi đã từng làm “lâm tặc”. Ở vùng quê, ai mà chẳng thương mẹ đun nấu rạ rơm sáng, trưa, chiều khói bụi mù mịt. Phải vào rừng kiếm củi thôi. Nhưng củi khô thì hiếm. Củi tươi thì nặng gánh vác không được nhiều. Vậy phải chờ ngày nắng to, vào rừng chọn cây dẻ, cây ngạnh tươi mà đốn hạ một vạt. Ba ngày sau vào tuốt lá, bó hai bó củi khô gánh về cho mẹ. Thế đấy. Từ “lâm tặc” là nói lũ ăn cướp ngày tàn phá bây giờ còn ngày trước làm gì có từ đó?
Từ mẹ, từ cây đa bến nước sân đình, từ cái nôi của hát xoan, hát ghẹo. Bao kỷ niệm từ thuở nhỏ của ông với đồng đất quê hương, những tối sân đình hát vui chơi cùng bạn. Lại được người mẹ giỏi hát đã gieo vào lòng cậu con trai thông minh hoạt bát những lớp lang bài bản. Hát xoan, bước một: Giáo trống, bước hai: Xuân cách – Thu cách, bước ba: Bỏ bộ – Xin huê – đố chữ. Hát ghẹo thì: Ví đặt trầu, Giọng sổng, Sang giọng, Ví tiễn chân. Và nhiều ngạn ngữ, thành ngữ, tục ngữ, ca dao trữ tình đã nhập vào ông để bây giờ ông khéo léo huy động hết vào trường ca Sức bền của đất.
Nhưng cái giỏi của người sáng tác là không hề bê nguyên si một câu xoan, câu xẩm, bỏ bộ, xin huê đố chữ nào. Mà có thể chỉ là một nét hư ảo thoáng qua, một giai điệu, một bóng hình tưởng tượng thuở nào cho ông phát triển những câu thơ, những đoạn thơ theo mạch cảm xúc những chương hồi. Còn người đọc thì có thể cứ mường tượng, chữ này, câu kia nó nằm ở phần Sang giọng của hát ghẹo hay Bỏ bộ của hát xoan? v.v…
Cây vối đứng bờ ao, cặp thừng treo gác bếp
Bồ muối để dành vần cạnh bếp tro
Cái cối cái chày đếm nhịp nhỏ to
Bao truyền thuyết được kể ra từ đấy…

Hai chữ thủy chung đính ở góc khăn
Bớt chông chênh những ngày chờ đợi
Kim chỉ có đầu hoa thơm có cội
Bèo trôi lôi bến tiễn đưa nhau

Tre làm nhà ngâm ba năm mới vớt
Ớt cựa gà ba vụ mới cay
Trời có mưa có nắng
Giếng có cạn có đầy
Con gái ở bền không chê tấm vá
Con trai ở bền như đá muối dưa…
Con trai ở bền như đá muối dưa?
Chỉ nghĩ về câu thơ này ở đoạn thơ này đã thấy thấm thía lắm. Muối dưa phải có nghề. Phải có tay muối dưa. Chỉ thao tác sai một công đoạn thì dưa sẽ khú. Dưa khú là lo đi đổ ngay không thì nó khắm lắm!
Thuở nhỏ, tôi đã thấy vú (mẹ) tôi muối dưa cải. Cải Bắc, trong tôi gọi là cải bẹ, cành dày, lá to. Vú mua ở chợ Đồng Hới, đường xa, gánh về đến nhà đã héo. Vú lột ra từng cánh, rửa sạch, cắt ngắn bằng hai đốt lóng tay, để trên xảo thưa cho ráo nước. Vú nấu nước sôi, pha muối vừa phải. Vớt bọt, lắng cặn bã. Nước vừa hẩm mới cho cải vào vại hình tròn. Tay vú nén cho cải chặt xuống. Đặt lên tấm vỉ tre thưa đan lóng mốt. Và động tác cuối cùng là đằn lên nó một hòn đá mồ côi. Nước dần dẫy lên ngập nửa hòn đá. Chừng hai ngày, vắt dưa ăn đã giòn đã ngon. Để thêm vài ngày nữa thì dưa vàng, chua và bốc mùi thơm dưa. Dưa cải vàng và chua là đúng dưa chín. Từ nó, có thể chế biến cùng với thịt, cá, tương đậu mà thành nhiều món ăn (cả chay và mặn) dân dã rất ngon, rất Việt Nam! Tôi còn nhớ, dưa cũ chưa hết, vú đã nén vại khác. Một phần ít dưa chua, vú dành nấu riêng cho thầy tôi thời chay. Còn hầu hết là nấu mặn cho cả nhà và thợ cày, thợ gặt. Nhà tôi xưa nhiều ruộng. Nhưng trong nhà không ai biết gì đến việc cày bừa nên vú tôi phải thuê tất. Thợ cày, thợ gặt họ rất thích ăn cá mè kho dưa và canh dưa chua nấu cá tràu (cá quả). Dưa cải, rồi còn dưa hành, dùng vào dịp lễ tết truyền thống. Dưa cải bắp có thêm rau răm (hai thứ đều thái chỉ). Ở Nghệ – Tĩnh có muối cà (cà Nghệ), còn muối xơ mít (gọi nhút) v.v… Tất cả các loại muối và mắm đều phải có tấm vỉ đan thưa và hòn đá đằn lên trên. Ồ, hóa ra hòn đá mồ côi lại bền lại chung thủy lắm ru? Và qua hòn đá muối dưa cho ta thấy tác giả trường ca này mới thật “đáo để” và sắc sảo đến ngần nào!
Hai câu thơ:
Con gái ở bền không chê tấm vá
Con trai ở bền như đá muối dưa

Nhà thơ Hữu Thỉnh- Chủ tịch LHTQCHVHNT Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam

Nếu bạn đọc nào cần biết, thì theo tôi nên hỏi ông Hữu Thỉnh lấy từ câu ca, tục ngữ hay từ câu xoan, câu xẩm nào ở quê ông mà giỏi đến vậy?
Một trường ca dài thấm đẫm chất văn học dân gian, nhưng ông chỉ lấy bốn câu cần thiết (có dấu đóng ngoặc) “Nàng về nuôi cái cùng con“, “Mẹ em tham khúc cá thu/ Gả con về biển mịt mù tăm tăm“, “Chim bay về núi túi rồi” và mười câu hát đồng dao trẻ em: “Thả đỉa ba ba/ Chớ bắt đàn bà/ Phải tội đàn ông/ Cơm trắng như bông/ Gạo tiền như suối/ Bỏ mắm bỏ muối/ Bỏ chuối hạt tiêu/ Bỏ niêu cứt gà/ Bỏ cho bà nào/ Bỏ cho bà này“. Còn từ đầu chí cuối trường ca là ông tự tung tự tác mà nên chương.
Theo năm tháng sáng tác ghi trong văn bản của ba trường ca, thì bản thảo đầu tiên Sức bền của đất, viết trước Đường tới thành phố hai năm, và viết trước Trường ca biển sáu năm. Và bây giờ bạn đọc được đọc một lúc cả tập (ba trường ca) thì dễ dàng nhận định, đánh giá sức vóc trường ca Hữu Thỉnh. Riêng tôi, giá như tôi mới chỉ  đọc Sức bền của đất thôi, thì cũng đã thấy đã đời lắm, tin cậy lắm. Bởi ông đầy bản lĩnh, vốn sống dồi dào và tinh thông  để công phá vào lĩnh vực văn học khó mà vẫn thành công. Nói ngắn: Hữu Thỉnh có tài viết trường ca.
Quải lưới đương ngàn, trong hát xoan, hát ghẹo đều có trò chơi bắt cá, thường tổ chức ở sân đình. Nam làm lưới, nữ làm cá. Khi bắt được cá, theo nghĩa bóng bẩy là họ đã trao tình cho nhau. Nhưng bởi tổ chức vui chơi nên dầu đã bắt được cá mà vẫn như là chưa có gì.
Một ví dụ (chương hai), tác giả còn hồn hậu hơn, trẻ trung hơn và vui không kém gì trò chơi quải lưới (Sang giọng – Hát ghẹo):
Ta sang xóm Chùa
Giếng đông người tắm
Con gái con trai đàn ông đàn bà
Họ chỉ mặc buổi chiều cho đỡ vướng
Anh và em cùng nhau đến tắm
Đứng như khoai như sắn giữa đông người
Anh ngó em
Em cũng ngó anh
Như bức vách nhìn vào bức vách
Em chưa chúm cau
Anh chưa thóc mách
Em và anh bong bóng sinh đôi
Rồi em lớn lên
Biết thử yếm đào
Anh cũng lớn lên
Biết đo quần lá tọa…

Sợi chỉ bền từ cây tre cây trúc
Sợi chỉ bền từ cây sui cây gai…
Sông ta quăng lưới giặc đến đằng sông…
Trăng mười bảy lại vá lành bến gãy…
Tôi trích thơ nhiều bởi tôi cố ý, để bạn đọc xem ra cách vận dụng câu chữ dân gian của người xưa có chỗ nào kháp ý, kháp chữ với người viết bây giờ? Ở đoạn thơ trên, phía người lớn thì, Họ chỉ mặc buổi chiều cho đỡ vướng, còn trẻ nhỏ thì, Em chưa chúm cau/ Anh chưa thóc mách, thì vui quả là vui. Cả làng đêm tối kéo nhau tới tắm giếng làng (theo tập quán không quần áo) mà chẳng ai để ý gì đến chuyện sex (như bây giờ) và bắt bẻ gì được ở người viết. Họ chỉ mặc buổi chiều cho đỡ vướngtài thơdiễn quá khéo! Em chưa chúm cau/ Anh chưa thóc mách/ Đứng như khoai như sắn giữa đông người/ Như bức vách nhìn vào bức vách… thì, tác giả là ông nhộn trẻ, ông hóm trẻ nên không có ai chê khuyết chỗ nào!
Tuổi thơ quê nhà – Tình yêu – Chiến trận đan xen quay cuồng trong người lính:
Mưa đựng hết trên đầu lá cọ
Trên trời có ông đùng bà đoàng
Làm sấm làm chớp
Dưới đất có anh và em
Lập một thiên đường không biết sợ
Chỗ ta đứng ngày xưa
Thành chỗ ngắm của pháo bầy bom chụp
Chúng nó chia ô bản đồ Tổ quốc
Tính suất bom cho mỗi con người…

Kẻ thù điên lên pháo chụp bom giờ
Trăng mười bảy lại vá lành bến gãy
Con gái lại lên rừng con trai xuống biển
Nghe tiếng súng biết nhau đang ở đâu…
Kẻ thù suốt ngày mong cho ta chết
Còn ta thì nhớ em và thương mẹ mòn đêm
Và:
Có miếng cao nai không sao gửi được
Mẹ ta đã ngoài sáu mươi!
Truyền thuyết Thánh Gióng được tác giả chuyển sang sự tích ông Khổng Lồ cũng rất hợp lý:
Hiện ra bước chân ông Khổng Lồ
Cơm gạo xềnh xoàng tình yêu quá cỡ
Bước chân ông Khổng Lồ thành giếng thành ao
Con trai rửa mặt đánh trận xa nhà
Con gái gội đầu thành dâu hiếu thảo…
Rồi, dần hiện lên những vị anh hùng giữ nước chống giặc ngoại xâm làm nên những trang sử ngời chói của dân tộc:
Sông ta quăng lưới giặc đến đằng sông
Núi ta lấy nâu giặc tràn qua núi
Ngô Quyền nhìn người dân binh cuối cùng trước giáo gươm giặc tới
Người lệnh cho thủy triều đầu quân
Sai rừng gỗ lim trùng trùng làm cọc

Trần Quốc Tuấn đại bản doanh trên nước
Kế đầu tiên là kế nhân hòa
Lệnh đầu tiên: Người hiền không bỏ sót

Đại yến của Quang Trung chỉ cơm nắm muối vừng
Ăn trên mình ngựa
Yêu sĩ phu Bắc Hà không phải là một kế
Mà là luật tồn vong

Những danh tướng tra gươm vào vỏ
Huyền Trân công chúa ra đi một mình…
Tiếp đến:
Sau này người ta sẽ bới tro lật cỏ đi tìm
Giải thích nhiều từ cổ
Trọng điểm là gì?
Chốt là gì?
Hủy diệt là gì?
Khi ấy
Anh và em chẳng còn ai nhớ nữa
Bởi:
Ta đi từ đầu sông Lô đến cuối sông Thương
Từ thung lũng Sa Thầy ra sông Trường trắng cát
Ta để lại Quán Hàu, Phà Gianh, đường 20, Đắc Tô, Ban Mê Thuột
Nơi đói ăn mơ mộng sống quên đời!…
Thì ra, trong những cuộc chiến tranh vệ quốc ở tất cả mọi thời, những người con của dân tộc Việt Nam ra trận đều coi cái chết nhẹ như lông hồng!

Trường ca Sức bền của đất, dù tác giả không đặt đề từng chương, chỉ để chữ số La mã I, II, III, IV, V, người đọc cũng có thể biết. Ví dụ (Xin lỗi tác giả trước) chương một có thể là “Lên đường“, bởi cuộc đưa tiễn của người mẹ xa con, con xa mẹ mới da diết làm sao:
Con chẳng dám nhìn mẹ lâu
Mái chèo khua sóng đánh
Ngấn nước lưng đê sẫm lời mẹ dặn
Mùi trầu cay ấm hoài trên vai…
Để sang chương hai, Sức bền của đất là sự huy động Tổng lực của hậu phương với tiền tuyến, người đi xa với người ở lại, sự khốc liệt đạn bom ở chiến trường với lời xoan lời xẩm êm ả ở quê nhà. Tình mẹ con, tình bạn bè, tình yêu được tác giả dựng lên một thế trận đại cục của cuộc chiến tranh nhân dân (được trích nhiều thơ ở trên), thì đến chương ba là chương “Đối kháng và sự nham hiểm của kẻ thù“:
Kẻ thù không ưng ta gọi anh em
Đừng chú bác ông bà gì ráo
Muốn phá vỡ quê hương bền dai trong máu
Chúng nhổ làng đi dồn vô ấp tân sinh…

Kẻ thù thật là chu đáo với ta
Bày trăm kế đầu hàng và phản bội
Duy có điều chúng không sao hiểu nổi
Người đến chiến hào mỗi sáng lại đông thêm

Con đường tấy lên như một lời thề
Đất gọi ta
Làng gọi ta
Nóng bỏng
Vịn vào cây ven đường nhẵn bóng
Ngỡ như đồng đội đỡ ta lên

Phục kích bất ngờ bắn giặc xác xâu
Đánh bộc phá theo đội hình cuốn chiếu
Đột kích xe tăng đập rắn trúng đầu
Mọi cách đánh đều lấy lời chỉ vẽ
Từ công việc ăn làm mộc mạc ngày xưa…
Ở các chương, chương nào cũng khắc ghi vào tim người lính là dù ở đâu cũng phải sống đúng, sống tốt với bạn bè, có người trên kẻ dưới, mới hòa hợp mới làm nên công chuyện, để bước sang chương bốn là chương “Hồi tưởng“, và, những kỷ niệm của người lính về quê hương bản quán, về mẹ, về bạn bè trường lớp, về em lại càng thêm sâu nặng ân tình:
Còn bao sách chúng ta chưa đọc đến
Nhỡ hẹn liên miên với các giảng đường
Nhỡ hẹn với mưa phùn Ải Bắc
Mai một cành thắt ruột kẻ tha hương

Nhỡ hẹn chùa Thầy
Vặn nhỏ mặt trời để vào hang Cắc Cớ
Nhỡ hẹn Yên Tử, nhỡ hẹn chùa Hương
Nhỡ hẹn đền Hùng, chùa Tây Thiên, chùa Độc Cước
Chưa đến Hội Lim
Thẫn thờ
Dải yếm
Chưa đi Hội Phủ Giầy mê mẩn trầu văn…
Những ước mơ đẹp thế, mê ly thế nhưng quân thù trước mặt, cả ở sau lưng:
Có những thằng còn nấp trong bóng tối
Thằng sống sót rình bắn anh sau gáy
Thằng viện binh gào đại bác tầm xa
Báng súng gãy
Lưỡi lê quăn
Trong trận giáp lá cà
Giặc chạy rồi
Anh dựa vào gốc cây ô môi mà thở.
Khốc liệt quá, giữa sự sống và cái chết đang nằm trong gang tấc, nhưng khi tỉnh lại, người lính đã nhớ mẹ với ước mơ rất bình dị:
Sau cuộc chiến tranh này
Ta chỉ mang về một chiếc vỏ đạn
Làm cối giã trầu cho mẹ của ta.
Đến chương kết – tổng kết trận đánh. Thắng và bại, được và mất, tác giả không khai triển gì thêm, chỉ gói gọn trong 39 câu là vừa đủ ý và tứ cho một bản anh hùng ca của cuộc chiến tranh vệ quốc, lập lại non sông gấm vóc của đất nước Việt Nam thống nhất mà tác giả – nhà thơ Hữu Thỉnh là người lính trong cuộc. Bởi thế, kẻ viết bài này cũng chỉ cần trích vài câu thơ ở cuối bản trường ca là đủ ý và tứ cho một thứ… gọi là… “Cảm thức Văn chương “, vậy:
Chừng như là đã cuối cuộc chiến tranh
Nghe lá đạp trên đầu xao xác quá
Anh không còn trẻ nữa
Những khẩu súng kia đã lớn tuổi rồi
Mộ bạn nhờ rừng thiêng giữ hộ
Bè bạn xanh rờn ngày nhập ngũ
Thành vô danh trên khắp địa bàn
Thành tướng lĩnh cầm quân trận cuối
Và:
Mùa xuân sẽ đến thay lời kết
Trong khói bụi tơi bời anh và em tong tả tìm nhau

Ta chao chân trên những mảnh bờ
Lặng lẽ nhận sức bền của đất
Đạp cứ điểm lần theo từng dấu dép
Ta nhận ra màu bùn của những cánh đồng chiêm.

Huế, 2-9-2012

Nguồn tin: TCNV 02-2013