Cây trầm thơm còn cháy đỏ

Trong dòng thơ kháng chiến chống đế quốc Mỹ có nhiều nhà thơ tài năng vào chiến trường, với nhiều giọng điệu hào hùng, say đắm. Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu góp vào dòng thơ ấy một giọng điệu tự sự trữ tình đầy chất sử thi.

Như nhiều nhà thơ – chiến sĩ, Nguyễn Đức Mậu khởi nghiệp là chàng binh nhì, vai đeo ba-lô, vác súng AK hành quân dọc theo chiều dài chiến trường cùng đồng đội. Họ có mặt ở các mặt trận ác liệt nhất: Quảng Trị, Khe Sanh, Tây Nguyên… Họ sống gian khổ, đói bệnh, ở rừng sâu đại ngàn, cồn cát cháy bỏng, đồng nước mênh mang, đối diện với mưa bom bão đạn, chất độc đi-ô-xin và những cái chết bất ngờ.

Từ cuộc chiến đầy máu và nước mắt ấy với tình yêu nồng nàn đất nước, quê hương, đồng đội, Nguyễn Đức Mậu đã ghi lại chiến tranh bằng Nhật – Ký – Thơ, giữa chiến hào sống và chết cách nhau một làn đạn, một tia chớp bom. Nguyễn Đức Mậu muốn thơ mình thắp thêm một nén trầm thơm cho đồng đội có tên và không tên, có mộ và không mộ chí đã ngã xuống dọc đất nước hình chữ S này:

Cây trầm thơm đẹp như cuộc đời chiến sĩ

Sống tươi tốt bao niềm tin bình dị

Thân hy sinh thơm đất, thơm trời

(Nấm mộ và cây trầm)

Có thể nói, “Nấm mộ và cây trầm” là tuyên ngôn về đề tài thơ của Nguyễn Đức Mậu. Nhà thơ viết trong tâm thế của người lính nhìn trực diện chiến tranh, vào sự mất mát đau đớn, sự tranh đấu tột cùng của bản ngã Con – Người trước cái yếu hèn và cao cả. Dù ở đâu trong máu lửa bom đạn hay trong sự yên bình ở Hà Nội, nhà thơ vẫn đau đáu đề tài đó: Từ tro than, thơ cháy lên ngọn lửa/Gương mặt bạn bè thấp thoáng một thời qua.

Thơ khóc đồng đội, thơ viết về cái chết của người lính trận trong nền thơ Việt Nam hiếm lắm. Cả cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chúng ta chỉ cùng được khóc với nhà thơ Hoàng Lộc trong “Viếng bạn”: Khóc anh không nước mắt/Mà lòng đau như cắt/Gọi anh chưa thành lời/Mà hàm răng dính chặt! Sau này có thêm “Núi Đôi” của Vũ Cao, “Mồ anh hoa nở” của Thanh Hải, “Quê hương” của Giang Nam góp vào tiếng khóc – thơ, mong làm một hồi chuông nguyện để dịu tắt ngọn lửa bạo tàn chiến tranh.

Vào cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ, cả dân tộc lao ra chiến hào chặn xe tăng giặc, bắn tàu bay Mỹ và có bao nhiêu người ngã xuống hy sinh. Thơ khóc đồng đội, thơ khóc người lính có nhiều hơn. Và Nguyễn Đức Mậu đã khắc họa được chân dung Người – Lính – Hy – Sinh. Hãy đọc các tập “Cây xanh đất lửa”, “Áo trận”, “Mưa trong rừng cháy”, “Trường ca sư đoàn”, “Cánh rừng nhiều đom đóm bay”… ta thấy rõ điều đó. Nguyễn Đức Mậu không thần thánh hóa sự hy sinh, mà chỉ ghi lại bằng ngôn ngữ thơ đầy hình ảnh và biểu cảm, để người đọc rung lên cảm xúc đến từng mạch máu và hơi thở của mình. Đây là cái chết của Hùng:

Ngực chắn lỗ châu mai, Hùng đứng thẳng

Lửa bén vào áo lính tuổi hai mươi

Nhà thơ khóc, tiếng khóc ấy vang vào thơ âm ỉ theo suốt cuộc đời:

Đất đắp mộ Hùng bom trộn lẫn

Cây Trầm cháy đỏ thay nén nhang

… Một thước đất sao Hùng không nghe mình gọi

(Nấm mộ và cây trầm)

Chứng kiến phút chói ngời của đồng đội trong các cuộc sáp trận với kẻ thù và cái chết hiên ngang của họ, nhà thơ viết không thể thật hơn. Không bày đặt cấu tứ, không trau truốt câu chữ, các câu thơ cứ trần trụi như trận mạc:

Ơi Chiến, ơi Hùng! Chỗ chúng mày đứng bắn

Vẫn còn dáng hai cây thông trần trụi giữa trời

(Những vỏ đạn còn lại)

Đây là cái chết của đồng đội Nguyễn Đức Mậu ở Thành cổ Quảng Trị, nơi 81 ngày đêm pháo, bom, lửa, nước, đất máu trộn lẫn. Những người lính Cụ Hồ bám trụ từng viên gạch lấy chính thịt xương mình lát con đường giải phóng quê hương. Những câu thơ đẫm máu và nước mắt:

Thằng Bường hy sinh, hai bàn chân bom tiện đứt

Dòng máu hòa với nước mưa tuôn

…Đêm Thành cổ mưa rơi lấp mặt

Tôi ôm Bường rung buốt cả hai tay

(Đêm Thành cổ năm 1972)

Chỉ có người lính trong cuộc mới thấy, mới cảm và đau thương tột cùng “rung buốt cả hai tay” như vậy. Còn chúng ta đọc lại hôm nay như vẫn sờ được gạch đá, bùn nước, ngửi được mùi cháy khét lửa bom, cái tanh nồng của máu thịt con người. Câu thơ chân thực, mạch thơ kể gọn, chọn chi tiết đắt như một đoạn phim quay chậm đặc tả không gây phản cảm mà găm vào trí nhớ ám ảnh người đọc trước mất mát của chiến tranh. Chúng ta cùng xem đoạn phim này:

Người lính chết, còn nằm trong đám cháy

Đất đai cùng xương thịt hóa màu than

… Mùi tóc cháy, mùi thịt da khét lẹt

Ngọn gió qua đồi, ngọn gió hóa mồ côi

Khuôn mặt cháy đen, chỉ còn đôi mắt nhìn trời không chịu khép

Như hai hốc đất sâu, hai vết thủng vòm trời

(Chân dung I )

Đoạn thơ đầy hình ảnh, các từ ngữ cứ vang lên trong trí não sống động đau xót. Xoáy vào ta là đôi mắt của người lính Việt Nam dũng cảm khát vọng nhìn lên vòm trời xanh, khát vọng một cánh chim hòa bình bay ra từ vết thủng của vòm trời máu lửa. Ta như được đọc những trang văn xuôi kiệt tác ở “Chiến tranh hòa bình” của Lép-tôn-xtôi, ở “Chuông nguyện hồn ai” của Hê-minh-uê vậy…

Còn đây đoạn thơ – văn – xuôi của Nguyễn Đức Mậu hiện đại mà vẫn cổ điển truyền thống tựa lời văn tế bi thương của cụ Đồ Chiểu xưa:

“Sáng. Tổ anh nuôi múc nước nấu cơm và hoảng hốt nhận ra xác hai cô gái. Tiểu đội tôi xục vào các hốc đá, lùm cây, tìm thấy ba xác chàng trai nữa. Chúng tôi đắp năm nấm mồ không ngày sinh, ngày mất, không họ tên, không địa chỉ thôn làng…”.

(Cánh rừng nhiều đom đóm bay )

Nỗi đau được thơ đẩy đến tận cùng cảm xúc, dồn nén lời kể, tưởng chỉ ở tiểu thuyết mới đủ không gian, thời gian diễn tả. Thơ Nguyễn Đức Mậu “kiểm kê” chân thực những cái chết oanh liệt của người lính để con cháu mãi nghiêng mình vọng nhớ:

Người đã khuất vắt qua rào dây thép

Dưới đất sâu hài cốt chẳng yên lành

Còn người sống đôi chân vùi điểm chốt

(Hai người bạn )

Hoặc:

Các anh chết, nhưng con đường không chết

Đồng Lộc xe qua sông suối dâng tràn

… Hài cốt các anh lẫn vào mặt đất

Các anh chết rồi chưa hết những hy sinh

(Khúc bi tráng ở ngã ba Đồng Lộc)

Đây nữa, cái chết của người lính giữa mùa xuân đẹp nhất:

Đêm giao thừa bom trải dài điểm chốt

Mười hai người lính trẻ hy sinh

Cánh hoa đón xuân thành hoa tưởng niệm

Như máu xót hoa rơi trên mộ bạn

Cả rừng Lào lã chã mưa rơi

(Kỷ niệm hoa đào )

Cánh hoa đào mởn tơ của mùa xuân nước bạn thành giọt nước mắt rơi trên mộ người lính tình nguyện và câu thơ cũng như giọt máu xót đau giữa rừng Lào. Có bảy nữ chiến sĩ trúng bom hy sinh tại một binh trạm Trường Sơn hoang vắng và nấm mồ chung cũng hoang vắng, chỉ có thơ làm nén trầm thơm khóc nhớ:

Da thịt các cô lẫn vào da thịt đất

Người chết và người chết tiễn đưa nhau

… bảy cuộc chiến tranh, bảy vầng trăng khuyết

Một nấm mồ chìm khuất rừng sâu

(Bảy vầng trăng khuyết )

Đọc ứa nước mắt. Câu thơ như tiếng nấc của mẹ, của em, của nhân dân với những người con gái mong manh mà dũng liệt. Không còn thơ nữa, chỉ còn nỗi đau chiến tranh, nỗi đau của nhân loại. Câu thơ gióng hồi chuông nguyện cầu Hòa Bình.

Thơ Nguyễn Đức Mậu không né tránh cái khốc liệt, cái đau thương, mất mát chiến tranh, không thi vị cuộc chiến, không kiểu hòa ca “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” một thời. Thơ Nguyễn Đức Mậu bụi bặm bùn đất chiến hào, xám xịt lô cốt thép gai, lạnh tê của lưỡi lê băng đạn. Cao hơn nữa dựng được tượng đài Người – Lính – Việt – Nam, anh Bộ đội Cụ Hồ chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân. Những người lính dũng cảm nhưng bình dị đôn hậu như đồng ruộng, cây đa, bến nước làng xa. Họ khát khao sống như nghìn năm đất nước này khát vọng hòa bình, khát vọng tình yêu. Những người lính: “Mũ lá sen lật khoảng trời súng đạn” và “Mồm nhai lương khô/Mắt dần khép lại/Khẩu súng tựa vào bờ vai thảnh thơi…”. Nhưng nếu có giặc, người lính vọt dậy lao lên chiến hào xung phong và nếu vấp làn đạn thù, các anh ngã xuống oai hùng. Và các anh sống mãi với đất mẹ hiền hòa, vời vợi trời xanh, dịu mềm hoa cỏ với cây trầm thơm cháy đỏ bên trời

Theo Nguyễn Ngọc Quế – Nhân dân cuối tuần