Câu chuyện Đà Nẵng là chuyện kể Đà Nẵng từ những năm cuối thập niên 80 cho đến năm 2000, cuốn tiểu thuyết kết thúc vào dịp đại lễ Kỷ niệm 25 năm Giải phóng Đà Nẵng. Trong những ngày vui đó, người dân Đà Nẵng trải qua những tâm trạng buồn vui lẫn lộn, mạnh mẽ và tàn nhẫn. Chập tối ngày đại lễ, Kỹ sư Văn Minh, Giám đốc công ty xây dựng cầu sông Hàn đã bị bắt. Ba Danh được một người bên Sở Công an cho biết Văn Minh đã khai với cơ quan điều tra đã hối lộ cho Chủ tịch thành phố nhiều lần, không thể nhớ nổi, có đến hàng tỷ đồng, trên cả mức án tử hình. Diễn biến vụ án rất xấu cho Ba Danh. Ba Danh im lặng trước người sĩ quan công an vài phút rồi nói: Đặt mình vào hoàn cảnh của Văn Minh, chắc tui cũng phải khai vậy. Người ta sẽ nói án ông là tử hình, nếu thành thật khai báo mới có căn cứ để giảm án, có thể chỉ xử lý hành chính. Phải thông cảm với Văn Minh… (tr.328-329). Còn với Quí kỹ sư, cộng sự của Văn Minh thì Dự án đưa vợ con rong chơi sau khi khánh thành cầu Sông Hàn của Quí kỹ sư phá sản. Giám đốc bị bắt, công ty đang trên bờ vực tan nát thì vui chơi cái nỗi gì. Quí kỹ sư tiễn vợ con về Hà Nội, nhưng anh ở lại Đà Nẵng. Chẳng còn việc gì cho anh ở đây nhưng anh muốn hàng ngày được ngắm cây cầu và chiêm nghiệm sự trớ trêu của thân phận con người. Anh cũng muốn ở lại Đà Nẵng nếu công an có triệu tập thì đến làm việc ngay, chứ về Hà Nội, hoặc đi một công trường khác, khi có lệnh phải quay vào Đà Nẵng thì rắc rối quá. Anh cũng muốn nếu có điều kiện vào trại giam thăm Văn Minh cho trọn nghĩa. Cả hai điều đó đều không xảy ra. Người ta không cần triệu tập anh nữa còn Văn Minh đang trong quá trình điều tra không ai được vào thăm… (tr.327-328).
Bìa cuốn tiểu thuyết
Việc Văn Minh bị bắt đúng lúc khánh thành cầu Sông Hàn với 2 bằng khen, một của chính phủ, một của thành phố thật là oái oăm, đến nỗi bà Phó Chủ tịch nước phải thốt lên: Mời khách về dự tiệc lớn, tiệc chưa kịp tàn chủ nhà lôi con ra đánh… (tr.326).
Lấy Đà Nẵng làm bối cảnh cho tiểu thuyết của mình, nhà văn Thái Bá Lợi muôn xây dựng những nhân vật trên cơ sở hiện thực hòa trộn với chất liệu văn học hư cấu huyền ảo, từ những nguyên mẫu trong cuộc sống bước vào trang sách đã trở thành những nhân vật ấn tượng bộc lộ một cách mạnh mẽ tính cách với sự quyết liệt trong khát vọng đổi mới và hành động. Một Ba Danh, Chủ tịch thành phố với những hành vi suy nghĩ cho thấy đó là một người của hành động, giàu khát vọng, ác cảm với sự trì trệ và thói quen thiếu trách nhiệm, một người thương dân nhưng đầy lý tính. Con người ấy vẫn tiềm ẩn những điểm yếu là nôn nóng, độc đoán, tham lam quyền lực, đôi chút mị dân… nhưng dưới ngòi bút của Thái Bá Lợi dù không hiển thị trực tiếp nhưng ẩn dụ bàng bạc đâu đó nghịch lý, đôi khi những điểm yếu ấy tạo nên sức đẩy góp phần vào quá trình đổi mới cho địa phương. Nhân vật Ba Danh thể hiện là mẫu người thông minh và khôn khéo nhưng cũng rất thực tế, không ngại bộc bạch, nói thẳng ra những điều mà không ít cán bộ cùng thời không ai dám nói: Xã hội bây giờ có người làm mười ăn mất bảy, có người không làm được việc gì cụ thể cho dân cũng ăn. Tui xin hứa với bà con là phải làm hết sức, nếu có ăn thì phải ăn chính đáng bằng công sức của mình, vậy có sòng phẳng không? (tr.243). Bên cạnh nâng cấp cơ sở hạ tầng, giao thông đô thị, nhân vật Ba Danh đặt mối quan tâm hàng đầu để nâng cao đời sống của mọi người, đặc biệt với người nghèo. Xây cầu qua sông Hàn là hướng phát triển của thành phố theo hướng biển, nhưng sâu xa hơn nhằm phá bỏ khoảng cách chênh lệch cuộc sống đôi bờ của người dân, xóa bỏ xóm nhà chồ nhức nhối bên sông. Con người ấy xem công việc là niềm vui, và trong những giai đoạn gặp nhiều trở ngại, bức xúc thì: Chỉ có công việc, mà công việc ích nước lợi dân thì con người sẽ quên bớt đi tính toán cá nhân, những mưu mô bè phái, những tham vọng quyền lực… (tr.193). Có lẽ, Giám đốc Văn Minh là nhân vật mà tác giả đã dành rất nhiều thương cảm. Đó là người đã tận hiến hết tinh lực và thời gian với ước nguyện xây cầu Sông Hàn, một người đã có nhiều công trình xây dựng từ Bắc vào Nam nhưng đã chọn xây cầu Sông Hàn chỉ với mong muốn làm một cái gì đó cho quê hương nhưng kết thúc cho bao năm tháng vất vả ấy là sự tù đày. Ngay cả trước thời khắc bị bắt giam, oái ăm thay Văn Minh biết vậy nhưng anh chưa sẵn sàng chuẩn bị đối phó vì anh nghĩ công lao anh lớn hơn nhiều so với những sai sót anh có thể mắc phải mà anh chưa lường hết được… (tr.257).
Văn chương của Thái Bá Lợi luôn được khởi nguồn bởi sự ám ảnh và đa tầng, đa nghĩa. Anh chỉ thủ thỉ kể câu chuyện Đà Nẵng bằng sự bình tâm, chẳng nặng nề phán xét một ai kể cả những nhóm người khác phe đổi mới, thế nhưng ẩn hiện trong đó bằng một ẩn ức có tính nhân văn, sự công bằng đối với nhân vật, cuộc sống. Bạn đọc có thể nhận ra có cái gì mong manh, phảng phất bằng sự thương cảm về số phận của các nhân vật kể cả đối với vị Chủ tịch thành phố len lỏi se buốt suốt những trang sách. Ám ảnh lớn nhất của tác giả là những câu hỏi được đặt ra: Nếu như Đà Nẵng không bắt đầu từ một đêm gặp gỡ giữa Bí thư tỉnh và Chủ tịch Đà Nẵng ở một huyện miền núi; ước ao được gặp chính phủ cho biết, giữa Chủ tịch thành phố và Thủ tướng Võ Văn Kiệt thành hiện thực, nếu như không có sự xuất hiện của Ba Danh thì Đà Nẵng sẽ phát triển ra sao. Nhà văn khi đánh giá cán bộ, nhà quản lý cao cấp với quan điểm đúng – sai trong cái thang điểm thử xem họ đã thực hiện được những gì có lợi với dân sinh, cộng đồng, người dân so với những gì mà cá nhân thụ hưởng…
Câu chuyện Đà Nẵng không chỉ có các nhân vật kể trên, đặc biệt là Ba Danh mà tác giả lấy cảm hứng từ con người đặc biệt Nguyễn Bá Thanh, Chủ tịch thành phố thời đó mà còn nhiều nhân vật khác. Một Trần Dạ, dân phong trào đô thị làm Bí thư phường xin nghỉ việc ở nhà dạy tiếng Anh để có tiền nuôi mẹ ốm nặng cùng vợ và 3 con, thế nhưng đó là người dám góp ý phản biện buộc Chủ tịch thành phố phải lắng nghe. Đó là một nhân vật hư cấu chiếm đa phần nhưng được xây dựng với tính cách, nghĩ suy đầy trăn trở và sâu sắc, trở thành hình tượng nhân vật điển hình đi qua cuộc đời bằng một thần thái nhẹ nhàng, một tâm hồn trong sáng và trung thực. Một nhà thơ Xuân Thống tưng tửng, hóng hớt, giỡn cợt, tào lao mỗi lần xuất hiện với những thông tin nửa đúng nửa sai, tưởng như một ca sĩ loại 2, loại 3 để khỏa lấp khoảng trống ở các chương trình đại nhạc hội nhưng sự xuất hiện của người tự xưng là thi sĩ đã làm cho câu chuyện thêm sinh động, hấp dẫn, khơi gợi nhiều cảm xúc.
Câu chuyện Đà Nẵng có cấu trúc như tiểu thuyết chương hồi nhưng lối viết, kỹ thuật dựng truyện rất là hiện đại với những tuyến nhân vật tiêu biểu cho nhiều hạng người: những anh Ba, Nhì, Lệ xay nước đá ở bến Phà Đen (lao động), trí thức như Trần Dạ, nhà Quảng học GS. Hạ, các văn nghệ sĩ như nhà thơ Vũ Hữu Định, các chuyên gia như Kiến trúc sư người Ba Lan Kazik, Văn Minh, kỹ sư Quí… mỗi người mỗi công việc, số phận, trình độ, hoàn cảnh sống khác nhau nhưng có cùng một mẫu số chung là ủng hộ sự đổi mới, mong muốn sự vực dậy thành phố của họ. Ngay cả nhóm công nhân xay nước đá ở bến Phà Đen khi hay tin làm cầu Sông Hàn, chân cầu sẽ nằm ngay nơi làm việc của họ, việc ấy đồng nghĩa sẽ lấy đi miếng ăn của cả 3 gia đình nhưng vẫn nhiệt tình nộp tiền xây cầu. Là người lao động họ nhận biết xây cầu là việc làm đúng, việc làm mà mấy trăm năm chưa có ai làm được.
Câu chuyện Đà Nẵng, chứa đựng những xung đột cao trào nhưng vẫn được kể lại bằng sự bình tĩnh, tránh được những phấn khích bằng một lối viết tinh tế nhưng hóm hỉnh được lấp đầy những tình tiết đầy sức hút với người đọc. Thái Bá Lợi là người hơn 40 sống và làm việc tại Đà Nẵng và gần gũi duyên nợ với những nguyên mẫu. Những trải nghiệm đa đoan ấy đã giúp cho câu chuyện Đà Nẵng với nhiều chi tiết đắt giá, những lớp cắt hiện thực, những tư liệu quý để những nhân vật được xây dựng một cách sống động.
Nên nhớ Đà Nẵng những năm đầu thập niên 1980 chỉ là một đơn vị hành chính ngang cấp huyện (tr.58) với kinh phí hoạt động chưa bằng kinh phí của công ty vệ sinh Hải Phòng dù cả hai là thành phố cảng có tiềm lực kinh tế ngang nhau… Thử nhìn lại, không có những người như Ba Danh, không có sự đồng lòng của lãnh đạo và người dân thì Đà Nẵng ngày nay sẽ như thế nào…
Hồ Sĩ Bình
—————————
(*) Câu chuyện Đà Nẵng – Tiểu thuyết của nhà văn Thái Bá Lợi. Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2016
(Nguồn: Văn học quê nhà)