Khởi đi từ hành trình “tìm lại thời gian đã mất”. Mình và họ bắt đầu bằng cái chết của Hiếu – nhân vật chính, khi xác đã nằm dưới vực sâu sau “cú bay thảng thốt tuyệt mỹ…, qua nhiều ngọn cây và đá” còn linh hồn thì đang lơ lửng giữa hai cõi âm và dương, thực tại và quá khứ, ý thức và vô thức.

Từ thời điểm này, câu chuyện được phân chia thành hai hướng: một là câu chuyện của linh hồn hướng về tương lai trên chuyến xe xuống, và một là câu chuyện của người đang sống với những kí ức đan xen trong chuyến xe lên. Hành trình xe lên và xe xuống chỉ diễn ra trong khoảng vài ngày, nhân vật trên hai chuyến xe cũng khá ít ỏi (xe lên: bốn người, xe xuống: năm người và một linh hồn), mà bao trùm cả hai cảnh giới âm/cõi chết và dương/cõi sống, quá khứ và hiện tại, miền xuôi và miền ngược, văn minh và dã man, chiến tranh và hậu chiến; cùng những trạng huống phức tạp của tâm hồn, nhân tính, nhân sinh: yêu thương và lầm lạc, bạo lực và tội lỗi, ý thức và vô thức, thiện và ác…

Để bao quát, miêu tả được không gian rộng lớn, thời gian trải dài như vậy, Nguyễn Bình Phương đã khéo léo đan cài nhiều lời kể: Lời kể của Hiếu – xưng “mình”; Lời kể và ghi chép của anh trai Hiếu – xưng “tao”; Lời kể của các nhân vật khác lồng vào lời của “mình”. Trong lời kể của “mình”, nhà văn chủ ý chia tách thành hai trường đoạn đan xen nhau: in nghiêng và in thẳng. Phần in nghiêng là cuộc sống sau cái chết, diễn ra chỉ vỏn vẹn trong khoảng 12 tiếng đồng hồ, bắt đầu từ lúc “mặt trời chậm chậm lăn theo lưng núi” cho đến “trước ban mai” ngày hôm sau. Phần in thẳng là toàn bộ cuộc sống trước khi chết, trong khoảng hơn 30 năm, từ cái thời ấu thơ “chạy rồng rồng dọc bờ sông hò hét, bẻ cây múa kiếm, vật nhau tung tóe trên dòng nước đỏ lừ phù sa” với anh trai và kết thúc là “mình” bay xuống vực thẳm tự vẫn.

Với cái tôi tự thuật hướng nội, Hiếu đã tái hiện câu chuyện về cuộc đời mình cùng những biến cố gắn với số phận từng thành viên trong gia đình anh. “Mình” có một gia cảnh và những mối quan hệ đặc biệt: ông ngoại là trùm phỉ có tiếng; mẹ đi tù vì “buôn hàng quốc cấm”; bố chết trong sự uất ức; anh trai đi bộ đội, bị bắt làm tù binh, trở về sau chiến tranh và chết vì điên loạn; ông chú thức thời; người tình hờ (Trang) cầm đầu băng đảng tội phạm. Đó là chưa kể mối tình vụng trộm của anh với Hằng – chị dâu, kết quả là đứa con trai ra đời (tám tháng sau chết vì viêm phổi), sau đó chị dâu bỏ nhà chạy theo người đàn ông khác. Hiếu sống khép kín trong căn phòng trọ nhếch nhác, tồi tàn, ít giao du bạn bè. Thế giới của anh chỉ xoay quanh gia đình (anh cũng không mấy thiết tha, ngoài tình cảm/mặc cảm tội lỗi với người anh trai bị điên loạn), và vài ba người bạn ít ỏi. Điều đó giải thích tại sao từ trong sâu xa bản thể, “mình” luôn có cảm giác trống trải, cô đơn, hoang hoải, vô nghĩa với mọi người, mọi thứ, mọi nơi (cảm giác này xuất hiện 14 lần).

Từ sự cô đơn, lạc lõng trong bản thể, Hiếu hướng sự chú ý ra bên ngoài. Anh tự nhận mình là kẻ thích đi chơi, thích nghe, thích biết, thích khám phá những điều bí ẩn xung quanh mình, mặc dù với anh, tất cả không để dùng vào việc gì. Anh có mối quan tâm đặc biệt dành cho mây và hoa quỳnh – biểu tượng của vẻ đẹp mong manh, hư ảo, phù phiếm; hứng thú, đam mê sách báo, nhất là sách viết về thế giới chính khách, và báo Công an Nhân dân (tờ báo này được nhắc đến với tần số không dưới 30 lần). Hiếu luôn bị bủa vây bởi bức tường bạo lực. Anh nhận ra nó trong câu chuyện về thế giới thổ phỉ, ở lời kể và ghi chép nhật kí của anh trai, qua trang báo đọc hàng ngày, từ lời nói, ý nghĩ cùng cách hành xử của mình và mọi người xung quanh. Ban đầu Hiếu hờ hững như kẻ ngoài cuộc, sau đó say mê, đồng lõa và cuối cùng thực thi bạo lực.

Không chỉ phơi trải cái ý thức hiện hữu, Hiếu còn khám phá, phô diễn những ám ảnh vô thức, những ý nghĩ thầm kín trong sâu thẳm tâm hồn mình. Suốt cả hành trình lên và xuống, anh vẫn day dứt, băn khoăn về tương quan giữa “mình” với thế giới xung quanh. Anh tự/bị xác lập cho mình một vị trí và cố gắng đến tuyệt vọng để nhận diện mình giữa: lên/xuống, mình/họ, bên ngoài/bên trong, cõi sống/cõi chết, người sống/linh hồn, thời gian đã qua/thời gian sau đó. Để rồi, có lúc “mình” tưởng chừng như đã nhận ra: “mình với họ rất khó phân biệt”, nhưng rốt cuộc sự hoài nghi, day dứt vẫn vây quanh nhân vật, thậm chí khi linh hồn đã kết thúc hành trình của nó: “Mà làm sao để phân biệt được lên với xuống ở cái vùng biên ải lúc nào cũng hoảng hoảng, bồng bênh này? Làm sao để phân biệt được mình với họ”.

Đứng giữa lằn ranh bên trong/bên ngoài, Hiếu luôn truy vấn câu hỏi về sự tồn tại và những bí ẩn nơi bản thể mỗi người, mỗi hiện tượng. Anh đã có bảy lần nghi vấn: từ bên ngoài thì làm sao biết được cái gì bên trong? Chính cái nhu cầu tra vấn, niềm thôi thúc tự nhận thức này giúp cho đời sống của Hiếu trở nên cân bằng hơn. Nếu không, cuộc đời anh chỉ loanh quanh đọc những chuyện giật gân trên báo Công an Nhân dân, nghiền ngẫm những câu chuyện đẫm máu của chiến tranh, say mê những chuyện rùng rợn, man dại về thế giới thổ phỉ, và rồi thản nhiên gây tội ác.

Mình và họ đầy ắp sự kiện, dịch chuyển liên tục trên nhiều không gian và thời gian, thế giới nhân vật phong phú, đa dạng. Với lối kể dồn nén, chắt lọc, tinh tế trong từng chi tiết, Nguyễn Bình Phương đã chứng tỏ tài năng/tài hoa trong việc tổ chức, sắp xếp, kết nối những câu chuyện và con người từ quá khứ đến hiện tại. Qua những chủ đề lớn về thế giới phỉ, chiến tranh biên giới, băng đảng tội phạm trong xã hội hiện đại, căn tính tộc người, cuốn tiểu thuyết đã thật sự chạm vào những vấn đề chung của nhân loại/nhân sinh/nhân tính.

Luận giải căn tính của bạo lực

Gia tăng, gấp bội và dịch chuyển điểm nhìn là biểu hiện độc đáo, sinh động trong nỗ lực khám phá, luận giải hiện thực và con người có chiều sâu của Nguyễn Bình Phương. Đó là hình thức phối hợp, đan xen nhiều điểm nhìn/quan điểm trần thuật trên nguyên tắc đối thoại. Chính điều này đã giúp Mình và họ vượt thoát tính đơn thanh, độc thoại một chiều của mô hình tự sự truyền thống; đan cài nhiều tiếng nói, thi triển liên tục những trường đối thoại, tạo dựng tính đa âm cho tiểu thuyết. Nhiều vấn đề từ quá khứ đến hiện tại được kết nối, soi rọi và luận giải: căn nguyên và hệ lụy của bạo lực, bản chất và những di chứng của chiến tranh, căn tính và văn hóa tộc người, mình/dân tộc mình trong tương quan với họ/dân tộc họ…

Bạo lực là một trong những vấn đề trung tâm được Nguyễn Bình Phương khám phá, lí giải. Tác giả tham vọng truy tìm căn nguyên của nó từ các câu chuyện quá khứ, nhằm nối kết, lí giải cho cách hành xử, tâm thế của con người trong xã hội hiện đại. Đó là những câu chuyện rùng rợn, kì bí và nghĩa hiệp trong thế giới thổ phỉ.

Hiếu – hình tượng nhân vật chính, vừa hoang mang, ghê tởm vừa thích thú, say sưa với những hình ảnh và câu chuyện về bạo lực, chết chóc. Anh thông thạo, háo hức dõi theo từng số Công an Nhân dân, đặc biệt những bài viết đăng tải các vụ giết người li kì, rùng rợn. Những câu chuyện vừa thực vừa hư, vừa quyến rũ vừa bạo liệt trong thế giới phỉ luôn làm anh phấn khích, nồng nhiệt hưởng ứng, và liên tưởng tới cái chết của Vân Ly trước đó.

Qua điểm nhìn của Hiếu, bạo lực nguyên thủy thoát thai từ hình thức hành xử của phỉ, bởi lẽ “xét thuần về mặt hành động thì phỉ là loại chạm tới cái cốt lõi nhất, tiêu biểu nhất của con người. Vì phỉ hay dùng hình thức chặt, thứ hình thức mang lại khoái cảm và uy quyền. Phỉ chặt đầu, chặt tay, chặt chân, chặt ngang người. Các loài khác không biết chặt, chỉ cắn, xé, móc”. Từ nhận thức ấy, điểm nhìn tiếp tục hướng đến giải mã căn tính và hệ lụy của bạo lực trong các sự kiện lịch sử cổ – trung đại: Lý Thường Kiệt khi triệt hạ thành Ung Châu (1075) đã cho chặt đầu tất cả những kẻ trong thành rồi xếp thành năm trăm tám mươi đống, mỗi đống một trăm cái đầu; toàn bộ gia quyến của viên quan cai quản vùng Bạch Long bị phỉ giết chết và chặt nhỏ (1886); cùng thời điểm đó, nhân viên phiên dịch người Pháp Haitce bị phỉ chặt làm sáu mảnh, lấy gan nhắm rượu; Nguyễn Ánh chặt hàng nghìn người thuộc phe Tây Sơn thất trận, vì trước đó đã chứng kiến cảnh bố mình bị anh em nhà Tây Sơn chặt đôi người (thế kỉ XVIII).

Bạo lực còn phủ đầy những đoạn viết về chiến tranh qua lời kể và điểm nhìn của anh trai Hiếu, ông cậu, “hắn”. Chiến tranh là một kiểu bạo lực, nhưng đó không phải là thứ bạo lực bất kỳ, mà đó là thứ bạo lực không có giới hạn(4). Trong thời chiến, những người tham chiến có quyền giết kẻ thù bằng mọi cách nhằm buộc đối phương chịu khuất phục ý chí của mình. Những người lính có thể dùng súng, hoặc trực diện hơn, bằng dao; có thể chọn cách chôn sống, thiêu chết đối thủ của mình. Bất kể chuyện gì cũng có thể xảy ra trong chiến tranh, kể cả những chuyện mông muội, kì quái, rùng rợn, không tưởng nhất của loài người: chuyện ăn “cao bành trướng”, chuyện ăn thịt người, chuyện “khai thác” tù binh…

Từ câu chuyện của quá khứ, điểm nhìn được dịch chuyển, kết nối, liên tưởng, nhằm giải thích căn nguyên cho những hiện tượng và hình thức bạo lực trong xã hội hiện đại. Bạo lực lúc này hiện hữu bằng hành động: giết/bị giết, kết quả: chết/bị chết, không giới hạn đối tượng, lí do, phương tiện. Có những cái chết bất đắc kì tử vì những lí do lãng nhách (bố mẹ và người yêu cô Kiều, ông lão ở bản La Sin, thằng Quých), lại có những cái chết trong vô thức (tài xế ngủ quên gây tai nạn); có cái chết thảm khốc (người phụ nữ bị xe cán), cái chết cô độc (người anh trai), lại có cái chết “thảng thốt tuyệt mỹ” (Hiếu). Người ta cũng có thể giết bất kể ai, thậm chí vứt một đứa trẻ vừa lọt lòng vào thùng rác như ném một món đồ không còn giá trị.

Chưa bao giờ bạo lực và những hình thức của nó thôi ám ảnh, đe dọa sự tồn vong của con người. Hiếu cũng như những người sống xung quanh anh luôn bị bủa vây bởi bạo lực không thể cưỡng lại nổi. Họ bối rối, hoang mang, hoài nghi bởi bạo lực không chỉ trong chiến tranh mà còn cả trong cuộc sống hòa bình; không chỉ diễn ra ở thế giới thổ phỉ dã man, mà còn hiện diện đầy rẫy ở cuộc sống hiện đại văn minh; không chỉ diễn ra trong lời ăn tiếng nói, cung cách sinh hoạt hằng ngày mà còn nhuộm lên bầu sinh quyển, vũ trụ, thiên nhiên – không gian sinh tồn của con người. Bạo lực cũng không phân biệt anh hùng/thợ săn/thổ phỉ, bên mình/bên họ, phe chính nghĩa/phe phi nghĩa, người thiện/kẻ ác, lực lượng chính thống/phi chính thống…

Bao quanh bởi bức tường bạo lực, mỗi cá nhân buộc phải lựa chọn một cách ứng xử (chối bỏ hay đồng lõa), một thái độ (ghê tởm hay say sưa), một hành động (chống lại hay thực thi) và một tâm thế (bị động hay chủ động). Nếu bạo lực trong thế giới phỉ được lí giải bởi tình trạng hoang dã, mông muội, bản năng nguyên thủy; bạo lực trong chiến tranh được khoác lên mình chiếc áo choàng của lí tưởng, nghĩa vụ bảo vệ xứ sở, thống nhất đất nước; thì bạo lực hiện đại hiện hữu không lí do mà như nhu cầu hằng ngày của con người.

Nhà văn Nguyễn Bình Phương

Luận giải bản chất chiến tranh và bi kịch hậu chiến

Với ý thức đòi quyền bình đẳng giữa kinh nghiệm cá nhân bên cạnh kinh nghiệm cộng đồng, Nguyễn Bình Phương đã cung cấp cho độc giả thêm nhiều điểm nhìn mới về chiến tranh cũng như thân phận con người trong và sau cuộc chiến. Câu chuyện chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979 và 1984 bi hùng được tái hiện từ hai nguồn: 1. câu chuyện của người cậu và người anh; 2. lời truyền khẩu, đồn thổi về chiến công của người đàn bà dốc Lang Hạ; chuyện ăn cao bành trướng, ăn thịt người được kể bởi “hắn” – người bạn đường trong chuyến xe lên.

Từ điểm nhìn hướng nội của người trong cuộc, anh trai Hiếu đã lột tả chân thực gương mặt man dại, bạo liệt, và sức hủy diệt đáng sợ của chiến tranh. Câu chuyện của người anh tái hiện sinh động cuộc chiến khốc liệt, một mất một còn trong mịt mùng rừng xanh núi thẳm vùng biên giới Việt – Trung; khắc họa chân thực số phận của người lính khi bị bắt làm tù binh; lí giải sâu sắc những chấn chứng hậu chiến hằn lên thể xác và tâm trí mình. Mỗi chi tiết về cuộc chiến được kể do chính người trong cuộc trở nên thật và đời hơn bao giờ hết. Những trạng huống người lính như vẫn còn nguyên trong mỗi kí ức về trận chiến: “Mày biết không, thằng Tấn vừa ngắm vừa đái ra quần. Đái xong nó mới bóp cò… Mỗi khi thằng Tấn sải chân, nước văng ra từ đũng quần nó trông rất đểu”.

Chiến tranh không chỉ gieo những cái chết từ hai phía mà còn âm thầm phá hủy niềm tin, tâm hồn và nhân tính con người. Cuộc chiến này đã để lại trong những người lính tham chiến chấn thương thể xác và bi kịch tinh thần, là nguyên do của căn bệnh trầm uất và điên loạn, cuối cùng là cái chết thảm thương trong cô độc. Chiến tranh như một bộ máy nghiền nát và hủy diệt tất cả, không chừa một ai, chỉ để lại tội ác và những linh hồn oan khuất, vất vưởng nơi rừng sâu, núi thẳm.

Để luận giải về tính chất của cuộc chiến biên giới, mối quan hệ đầy duyên nợ giữa hai nước láng giềng, bản chất trong hành động cách mạng và thổ phỉ, bên cạnh điểm nhìn của người anh Hiếu, Nguyễn Bình Phương đã tổ chức tinh tế thêm nhiều điểm nhìn trên nguyên tắc đối thoại. Trong Mình và họ, tác giả đã xây dựng ba tiết đoạn gặp gỡ/đối thoại, ẩn chứa nhiều dụng ý nghệ thuật: 1. ông cậu và “mình”; 2. Chu Chồ Sền – trùm phỉ và Chu Văn Tấn – Việt Minh; 3. “mình” và “hắn”. Ở đó không đơn giản là cái nhìn/cách nhìn mà sâu xa hơn là quan điểm/nhãn quan giá trị trong tầm nhìn của người trong cuộc và ngoài cuộc, lực lượng chính thống và phi chính thống.

Qua điểm nhìn của ông cậu, người sống ở vùng biên ải và đã từng trực tiếp tham chiến, cuộc chiến này “chẳng khác gì việc xích mích với hàng xóm. Thi thoảng đụng nhau vậy rồi lại quên đi, buồn buồn thì gọi nhau sang uống chén rượu”. Hiếu lại có một cái nhìn khác, không hẳn là “ngược sáng” hay “giải thiêng”: “cuộc chiến này là bãi nước bọt nhổ vào mặt người anh hùng. Mình đã mất mấy chục năm xương máu để tạo dựng uy danh nhưng chỉ cần có vài tuần họ đã cướp cái uy danh ấy”. Anh đối thoại lại với cái nhìn bình thản, nhẹ nhàng của ông cậu về mối quan hệ giữa hai nước láng giềng: “làm chó gì có sự tử tế giữa hai quốc gia. Toàn thổ phỉ cả”, bởi ở đó là sự hận thù xuyên nòi giống, sự giao tranh không khoan nhượng, sự rình rập, giam hãm, giăng bẫy bất cứ lúc nào.

Vấn đề tương quan, bản sắc giữa mình/dân tộc mình và họ/dân tộc họ, Việt Minh/thổ phỉ tiếp tục được khơi dậy trong cuộc đối thoại giữa Hiếu và “hắn”, Chu Chồ Sền và Chu Văn Tấn. Qua câu chuyện ăn “cao bành trướng” lạ kỳ, rùng rợn, “hắn” nhận thức: “mình là mình, họ là họ, chẳng dính dáng gì đến nhau”, “vì giỏi cười xòa cho nên mình trở thành ẩn ức của họ”; còn Hiếu thì xác quyết “mình với họ rất khó phân biệt”.

Nguyễn Bình Phương đã khai phóng và kết nối những vấn đề riêng và chung, cá nhân và dân tộc, nhân sinh và nhân loại, từ quá khứ đến hiện tại. Và đó cũng chính là lúc người đọc phiêu lưu, thám hiểm vào thế giới nghệ thuật vô cùng sinh động và thú vị này.

Không riêng gì Mình và họ, tác phẩm của Nguyễn Bình Phương từ Bả giời (1991), Những đứa trẻ chết già (1994), Người đi vắng (1999), Trí nhớ suy tàn (2000), đến Thoạt kỳ thủy (2004), Ngồi (2006) vừa cuốn hút, vừa thách thức với cộng đồng diễn giải vốn quen xu hướng chọn những gì dễ dãi, giản đơn trên tâm thế thụ động – đọc như một hành vi tự vệ. Mình và họ mang đậm ý vị triết học – đạo đức, triết học – nhân sinh trên tinh thần nhân bản hiện đại, để một lần nữa khẳng định lí do tồn tại của văn chương trong hành trình cứu rỗi và thanh lọc tâm hồn con người. Tác phẩm xứng đáng là dấu ấn và thành tựu quan trọng của văn xuôi Việt Nam đương đại.


Nguyễn Văn Hùng – Nguồn: Viện Văn học; Văn nghệ Thái Nguyên

(Đăng lại từ Vanvn.net)